Tuesday, May 7, 2013

Người Việt nhìn qua sử Việt-Nam

Người Việt nhìn qua sử Việt-Nam
 
Lạc-long-Quân Sùng-Lãm  
Hồng-Bàng vốn họ vua Hùng-Vương.
Người đứng đầu của nước Văn-Lang.
Mười tám đời yên như bàn thạch.
Sống an nhàn một cỏi phương Nam.
Lấy đạo nhơn-hòa xây dựng nước.
Không màng tranh chấp với lân bang
Trên dưới vua tôi vốn một lòng.
Thương nhau tựa như cùng cha mẹ.
 
Thanh-bình trong cảnh đời dân dã.
Hòa-bình trong cuộc sống chung nhau.
Thái-bình dân sống đời an lạc.
"Tam bình" chung lại sống thái-hòa.
Vua tự xem dân như cha mẹ.
Dân trọng vua như bậc thánh-hiền.
Chung lòng xây dựng nước Văn-Lang.
Phù trợ dương danh giống Lạc-Hồng.
                 Được-Lời(LKC)
 
Người Việt nhìn qua sử Việt.
Mấy ai nói đến lời chân thật.
"Người Việt" ra sao mới thực là.
Để lòng nhìn lại qúa khứ ta sẽ thấy "Người Việt tự dối mình" trên nhiều phương hiện,tự thấy nếu nói thẳng thừng thì sợ người ta gọi mình là ngang ngược và hồ đồ,vì đây là vấn đề nhạy cảm đối với mọi người cùng chung nói tiếng Việt,cùng chịu ảnh hưởng đến sông núi Việt-Nam,đó là "Chất Việt" sẳn có trong bản thân "Cần cù,nhẩn nại,thông minh và hòa bình",sự thật này không ai mà không nhận thấy,và cũng không thể chối cải được.Nhưng nói đến "Người Việt" người ta không nhận xét qua đời sống dân gian để phàn đoán,mà chỉ nhìn cảnh xô bồ bôn chen trong cuộc sống thị thành,các hàng phẩm quan quyền và nhất là qua sử sách,rồi bình phẩm một cách qua loa trong cái "Tính lơ là" sẳn có,bởi thế mất đi nhiều cơ may chính mình tạo nên.
Nói đến sử sách thì phải xét qua các triều đại lập quốc.Nhìn chung "Người Việt" trông vẻ như hòa đồng và hiếu  khách,trong lần gặp mặt đầu, sau khi giới thiệu qua tên họ và vài câu xã giao,thế nào cũng có câu tiếp "Anh là người..H..?",khi nghe qua giọng nói hoặc cái họ của người đối diện,rồi liền hỏi trong vẻ tự nhiên như là lời xã giao,đây là "tính lơ là" cuả "Người Việt",vì tôi được hỏi nhiều lần qua cấp chỉ huy hoặc những người bạn mới trong quân đội,không phải người Việt có tính kỳ thị mà vì tính tự hào về dân tộc bởi sự thông minh sẳn có trong con người,cho nên mọi việc đều dè dặt và cẩn thận trong các ngành chỉ huy,lảnh đạo,người Việt tin tưởng nhiều ở những người họ Nguyễn,Đinh,Lê,Lý,Trần,Hồ,Trịnh,Bùi,Phạm và Ngô..."họ Ngô" đôi khi cũng còn nghi ngờ,sao tôi nói thế,vì vợ tôi bạn bè cũng thường hỏi "Chị là người Hoa?".Sao người mình lại có cái tính này,có phải vì ảnh hưởng quan niệm "ngàn năm nô lệ giặc Tàu",đây là một định kiến cố chấp của "Người Việt",chứ sao không nhìn qua nước Malaisia (24/100 gốc Hoa,70/100 người bản xứ),Tân-gia-Ba (75/100 gốc Hoa,25/100 người bản và gốc Ấn),quốc gia phát triển mạnh,nước họ có theo chỉ thị của Trung-Quốc không?Trong khi đảng Cộng sản Việt-Nam,Hồ-chí-Minh,Phạm-văn-Đồng vì quyền lợi mà quên đi trách nhiệm quốc gia,không nghỉ đến dân tộc,luôn luôn nghỉ cách đề phòng người Hoa mà không thấy đây là "Cộng đồng chất Việt".Thử nhìn lại lịch sử.Tổ tiên người Việt là Lạc-long-Quân Sùng-Lãm thể hiện rõ "Chất Việt (75/100 Việt + 25/100 Tàu)",và trong thời ngàn năm Bắc thuộc có vị anh hùng nào mang họ vừa kể ở trên đâu?Các Ngài đã lảnh đạo toàn dân,người cùng "Chất Việt",chống lại toán quân Tàu xâm lược.Như nhìn vào lịch sử,ta thấy thời kỳ độc lập của Việt-Nam bắt đầu từ Ngô-Quyền,nhưng khi nói đến các triều đại thì các thầy dạy sử thường với câu "Đinh,Lê,Lý,Trần,Lê,Nguyễn.."mà quên mất đi Ngô-Quyền và những người kề trước Ông như Khúc-thừa-Dụ (906-907),Dương-diên-Nghệ đã mở đường cuộc cách mạng chống Tàu hơn 30 năm liên tục.Trong sử Việt nếu ta để ý ta sẽ thấy chỉ có Ngô-Quyền,Đinh-bộ-Linh,Trần-nhân-Tông,Lê-Lợi và gần thời chúng ta nhất là Ngô-đình-Diệm là được kính phục,vì những vị vua này trị quốc đúng cách một "Minh quân",còn các vị vua khác như Lê-Hoàn thời Tiền-Lê,Lý-công-Uẩn nhà Lý,Trần-Cảnh nhà Trần thì không được huy hoàng gì mấy,đặc biệt thời nhà Trần với cuộc thảm sát của Trần-thủ-Độ làm kinh hoàng cho cả giòng họ Lý,Nguyễn-Huệ sau khi đại phá quân Thanh thống nhất nước nhà,mưu tìm giết hại giòng họ Trịnh,Nguyễn Ánh sau khi thống nhất giang sơn thì câm thù Nguyễn-Huệ và truy lùng bà con thân thích giòng họ Hồ-Thơm,trong thời Việt-Nam Cộng-Hòa,nhóm Dương-văn-Minh,Tôn-thất-Đính,Trần-thiện-Kiêm đã giết ngài tổng thống Ngô-đình-Diệm và cố vấn tổng thống Ngô-đình-Nhu,trong khi đó Ngô-đình-Diệm lại là cha đở đầu của ĐÍnh và Khiêm,lịch sử trớ trêu thế có sử nào ghi lại,tạo cho "Người Việt" trong cảnh mù mờ chỉ biết mình là "Anh hùng chống ngoại xâm" mà quên đi cái tính thuần lương của "Người Việt" trong thời Lạc-long-Quân.Để nhận lại  lịch sử rõ ràng hơn chúng ta bắt đầu:
 Sử Việt-Nam.  
 Trong lịch-sử người Việt ai cũng biết họ Hồng-Bàng là họ của vua Hùng-Vương,chuyện đó không sai,giòng họ này bắt đầu từ thời nào?Đó là điều mà tất cả người Việt đều cần biết,theo quyển Việt-Nam sử-lược của ông Trần-trọng-Kim viết,vua Hùng-Vương bắt đầu từ thời con của Sùng-Lãm và bà Âu-Cơ,theo tục phụ đạo(lấy họ cha,cha truyền con nối),người làm vua gọi là Hùng-Vương,truyền nhau 18 đời.Như vậy vua Hùng-Vương họ gì?Như ta được biết vua Đế-Minh nam du lấy nàng tiên sinh ra Lộc-Tục,sau Đế-Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế-Nghi làm vua phương Bắc,và Lộc-Tục làm vua phương Nam,từ điểm này ta nhận thấy,vua phương Bắc theo phụ-hệ,vua phương Nam theo mẩu-hệ,vì Đế-Nghi theo họ cha,Lộc-Tục theo họ mẹ,Lộc-Tục cưới vợ sinh con là Sùng-Lãm,họ Sùng là họ của mẹ,Sùng-Lãm cưới Âu-Cơ(con của Đế-Lai),vậy con của họ là họ Đế.Xét theo mẩu-hệ,Sùng-Lãm và Âu-Cơ khác họ nên việc lấy nhau là chuyện thường tình (cũng như ngày nay,hầu hết các nước Á-Châu như Việt Tàu Trung-Đông đều cho rằng anh em bạn dì ưng nhau là chuyện bình thường,vì 2 người đều khác họ),bởi Trần-trọng-Kim nhìn Sùng-Lãm và Âu-Cơ theo quan niệm phụ-hệ của phương Bắc và mẫu hệ của phương Nam,hai người đều khác họ,mặc dù họ là cháu của Đế-Minh (Sùng-Lãm gọi Đế-Minh là "ông ngọai,còn Âu cơ gọi Đế-Minh là cố nội),nên Trần-trọng-Kim hỏi đây có phạm đến luân thường đạo lý không?Vì thời đó dân gian theo mẩu-hệ,con sinh ra đều mang họ mẹ,còn trong triều đình truyền ngôi vua chỉ truyền cho người nam,nếu cứ theo tập tục dân gian thì các triều đại sau luôn luôn đổi họ,bởi thế khi Sùng-Lãm lên ngôi vua,Ông mới có luật "Người làm vua gọi là Hùng-Vương mang họ Hồng-Bàng",nên mới có họ Hồng-Bàng từ đầu thời vua Hùng-Vương thứ nhất và duy nhất để chỉ rỏ đó là họ của nhà vua,có nghĩa là anh em cùng nhà vua cũng không được mang họ Hồng-Bàng mà vẩn phải mang họ mẹ,như vậy họ Hồng-Bàng chỉ có 18 vị vua Hùng-Vương được mang họ này mà thôi.Đây là một quan điểm chính trị tuyệt đỉnh mà Lạc-long-Quân Sùng-Lãm đặt ra trong xã hội theo mẩu hệ,nhầm ổn định chế-độ quân chủ thời đó,ta có thể hảnh diện Sùng-Lãm là Ông Tổ của ngành "Luật Việt-Nam".Vì tính thuần lương của nhà vua,dân gian sống thời thật thái bình,với quan niệm của thời vua Nghiêu vua Thuấn và Chu-võ-Vương(vua đầu tiên thời Tây Chu) bên Tàu,vua coi dân như cha mẹ,dân trọng vua như bậc thánh hiền.Đời vua Hùng-Vương là triều đại lâu dài nhất của dân tộc Việt-Nam,trị quốc với quan niệm nhơn-hòa,thực hiện tam bình "Thanh-bình,Hòa bình và Thái-bình",khác với quan niệm thống trị của người Hán trong học thuyết "Tu thân,tề gia,trị quốc,bình thiên hạ"(vì trong gia đình thường bao che con cái,chính lý do này tạo cảnh cường hào ác bá).
Sơ lược lịch-sử Việt-Nam.
Họ Hồng-Bàng(2879tcn-258 tcn).Đế-Minh cháu 3 đời vua Thần-nông đến núi Ngủ-Lĩnh(Hà-Nam) gặp tiên sinh con Lộc-Tục , Đế-Minh  truyền ngôi cho  con  trưởng Đế-Nghi  làm vua  phương Bắc,và Lộc-Tục làm vua phương Nam,Lộc-Tục xưng  là  Kinh-dương-Vương lấy quốc hiệu là  Xích-Qũy , nước  Xích-Qũy  bắc  giáp hồ Động-Đình , nam giáp Hồ-Tồn(Chiêm-Thành),tây giáp Ba-Thục,nam giáp biển Nam-Hải,Kinh-dương-Vương là thủy tổ Bách-Việt, lấy con gái Động-đình-Quân là Long-Nữ sinh Sùng-Lãm.Sùng-Lãm lên ngôi xưng là Lạc-long-Quân.Lạc-long-Quân cưới con gái Đế-Lai tên là Âu-Cơ sinh ra một lần 100 đứa con , sau khi các con lớn lên,Lạc-long-Quân nói với Âu-Cơ"Ta là giống rồng nàng là giống tiên,thủy hỏa  khắc  nhau chung  hợp thật khó", bèn  từ biệt  nhau , Âu Cơ dẩn 50 con lên núi,Lạc-long-quân dẩn 50 con xuống biển", lập lên nước Văn-Lang,gồm 15 bộ-lạc:
1-Giao-Chỉ (Hà-nội,Hưng-yên,Nam-định,Ninh-Bình).
2-Vũ-Ninh (Bắc-Ninh).            3-Phúc-Lộc (Sơn-Tây).
4-Việt-Thường (Quảng-Bình,Quảng-Trị).
5-Chu-Diên (Sơn-tây).            6-Ninh-Hải (Quảng-Yên).
7-Dương-Tuyền (Hải-Dương).  8-Lục-Hải (Lạng-Sơn).
9-Vũ-ĐỊnh (Thái-Nguyên,Cao-Bằng). 10-Bình-Văn ( ? ).
11-Cữu-Châu (Thanh-Hóa).     12-Cữu-Đức (Hà-Tỉnh).
13-Tân-Hưng (Hưng-Hóa,Tuyên-Quang).
14-Văn-Lang (Bạch-Hạt tỉnh Vỉnh-Yên).
15-Hoài-Hoan (Nghệ-An).
Vua đóng đô ở Phong-Châu,đặt luật lệ triều chánh,con trai gọi là "quan-hùng",con gái gọi là "mỵ-nương",tướng văn gọi là "lạc-hầu",tướng võ gọi là "lạc-tướng",truyền ngôi cho con trưởg lên làm vua gọi là Hùng Vương,truyền nhau được 18 đời vua đều gọi là Hùng-Vương.Trong 18 đời vua Hùng-Vương có 2 sự tích được truyền tụng trong dân gian:
1-Thời Hùng-Vương thứ 6 có tích bé thần đồng ở làng Phù-Đổng cởi ngựa sắt đánh dẹp yên giặc Ân rồi bay về trời,dân làng ghi nhớ công lập miểu thờ Phù-Đổng-Thiên-Vương để tạ ơn ngài."thời vua Trụ bên Tàu là nhà Thương còn gọi là Ân-Thương(1751 tcn-1111tcn)có thể giặc Ân là giặc của triều đại này".
2-Thời Hùng-Vương thứ 18 có tích"Sơn-tinh thủy-tinh.Thủy tinh vì đem xính lễ đến trể nên không cưới được Mỵ-nương đem lòng thù hận,dùng phép thuật làm nước sông dâng lên,ý muốn làm ngập núi để đánh với Sơn-tinh,kỳ thực là thề quyết diệt Văn-Lang.Sau này chính Thục-Phán người Ba-Thục đánh bại vua Hùng-Vương 18,chấm dứt triều đại Văn-Lang.
 An-dương-Vương(258tcn-207tcn).
Vua Thục xin cưới hỏi Mỵ nương không được bèn đem lòng thù hận vua Hùng-vương,quyết lòng trả thù Văn-Lang,đến đời sau Thục-Phán người Ba-Thục,khi lên ngôi đem quân đến đánh Văn-Lang,Hùng-Vương 18 thua nhảy xuống giếng tự tử,Thục-Phán lên ngôi xưng là An-dương-Vương,
trị vị 50 năm đổi tên nước là Âu-Lạc,đóng đô tại Phong Khê,bắt dân xây thành Cổ-Loa.Có Cao-Lổ chế được cái nỏ liểu bắn 1 phát ra 10 mũi tên,tạo thế quân rất mạnh,nhưng sau nhà vua bạc đải Cao-Lổ,Cao-Lổ bỏ vua,vả lại Mỵ-Châu(con An-dương-Vương) có tư thông cùng Trọng-Thủy
(con Triệu-Đà) nhân đó phá hư nỏ thần,tạo thế để Triệu-Đà đem quân diệt Âu-Lạc rồi lập lên nhà Triệu.
 Nhà Triệu.(207tcn-111tcn).
1-Triệu-Đà(207tcn-137tcn).Bên Tàu Tần-thủy-Hoàng năm thứ 33 thống nhất TQ,chiếm lấy Dương-Việt,dùng Nhâm-Ngao làm ký quận Nam-Hải,dùng Triệu-Đà làm lệnh quận Long-Xuyên,đến đời Tần-nhị-Đế Nhâm-Ngao mất,Triệu-Đà lên thay.Sau khi nhà Tần bị Tây-Hán diệt(206tcn),Triêu-Đà chiếm Quế-Lâm và Tượng-Quận,năm 207tcn Triệu-Đà tự xưng Nam-việt-Vương,năm sau Lưu-Bang diệt Tần,thống nhất Trung-Hoa xưng Hán-cao-Tổ(206tcn-195tcn),mãi đến năm 196tcn Lưu-Bang sai Lục-Gỉa  sắc phong Triệu-Đà làm Nam-Việt-Vương.Đến năm mậu-ngọ 183tcn,Võ hậu cầm quyền Hán triều,cho người đến khuyên dụ lần nữa,Triệu-Đà mới chịu thần phục nhà Hán,Ông mất năm 137tcn,tương truyền ông sống 122 tuổi,truyền ngôi cháu đích tôn tên Hồ.
2-Triệu-văn-Vương(137tcn-125tcn).Tên Hồ cháu Triệu-Đà lên ngôi được 2 năm,vua Mân-Việt (Phúc-Kiến) đem quân sang đánh,Triệu-văn-Vương cầu viên nhà Hán,vua Hán sai Vương-Khôi và Hàn-an-Quốc sang đánh và giết vua Mân-Việt,còn sai Trương-Trợ dụ về chầu Hán đế bên Tàu,vua cho thái tử Anh-Tề đi thay sống tại Hán triều 10 năm,đến năm 125tcn Triệu-văn-Vương mất,làm vua được 12 năm.
3-Triệu-minh-Vương(124tcn-113tcn).Tên Anh-Tề vợ là Cù-Thị có con là Hưng,trở về làm vua xưng Triệu-minh-Vương,phong Cù-Thị làm hoàng hậu,Hưng làm thái tử,làm vua được 11 năm.
4-Triệu-ai-Vương(113tcn-112tcn).Tên Hưng làm vua được 1 năm,thái hậu Cù-Thị đã tư thông với An-quốc thiếu qúy trước khi lấy Anh-Tề,khuyên Triệu-ai-vương nên triều cống nhà Hán và qua Tàu chầu vua Hán,thừa tướng Lữ-Gia can giáng vua không nghe lời mà còn nghe theo thái hậu Cù-Thị lập mưu giết Lữ-Gia.Lữ-Gia biết được làm loạn,Hán-vũ-Đế bên Tàu sai Hàn-thiên-Thu đem 2.000 quân sang đánh Lữ-Gia,Lữ-Gia cùng em trai và dân chúng giết Cù-Thị và vua(tức Hưng con riêng Cù-Thị và An-quốc thiếu qúy) cùng sứ gỉa Tàu,lập con trưởng Triệu-minh-Vương là Vệ-dương-Hầu lên ngôi vua.
5-Triệu-dương-Vương(112tcn-111tcn).Tên Kiến-Đức (con của Triệu-minh-Vương và vợ là người Nam-Việt) cũng gọi Triệu-vệ-Vương làm vua được 1 năm,Hán-vũ-Đế sai Phục-ba tướng quân là Lộ-bác-Đức lảnh bộ binh và Dương-Bộc lảnh thủy binh đem 5 đạo quân đánh chiếm Nam-Việt và đặt là Giao-Chỉ bộ chia làm 9 quận,đặt quan cai trị như các châu huyện bên Tàu.Từ đây dân tộc Việt bước vào thời kỳ nô lệ trên ngàn năm.
Thời kỳ Bắc thuộc.
A- Bắc thuộc lần thứ I.(111tcn-40cn).
Cuộc khởi nghĩa Trưng-Trắc Trưng-Nhị(40cn-43cn).Trong thời Bắc thuộc,các quan lại đều là người Tàu,dân Việt chỉ làm nô lệ,thời Hán-vũ-Đến(25cn-58cn),tại VN Tô-Định làm thái thú tàn ác hung bạo giết Thi-Sách(người huyện Châu-Điền con quan Lạc tướng)chồng Trưng-Trắc,Trưng-Trắc cùng em Trưng-Nhị người Mê-Linh làng Hạ-Lôi huyện Yên-Lãng tỉnh Phúc-Yên,con gái quan Lạc-tướng(võ tướng thời Hùng-Vương),nổi lên ở Phong-Châu đánh giết Tô-Định,các dân ở Cửu-Chân và Nhật-Nam hưởng ứng cùng khởi nghĩa chiếm được 65 thành ở ngòai phía Nam nhà Hán,xưng vương năm 39cn đóng đô ở Mê-Linh.Năm 40cn Hán triều sai Mã-Viên đến đánh,năm 42cn Mã-Viện tiến đánh Lãng-Bạc 2 Bà  thế cô cầm cự không nổi bèn rút về Cẩm-Khê,năm 43cn Hai Bà cùng tuẩn-tiết tại Hát-Giang.
B-Bắc thuộc lần thứ II.(43cn-588cn)
1-Nhà Đông-Hán.(25cn-220cn).Sau cuộc khởi nghĩa của 2 Bà Trưng,Giao-Châu trở lại thời nô lệ như xưa,quan lại cai trị tàn ác và bạc đãi người bản xứ,mãi đến cuối thời Hán-linh-Đế(168-189) mới có Lý-Tiến lên làm thứ sử ở Giao-Chỉ xin vua Hán cho người bản xứ làm quan như người Hán,vua Hán đồng ý cho làm quan tại bản xứ mà thôi,sau lại có Lý-Cẩm làm lính tục-vệ hầu vua ở trong điện xin vua Hán cho người Giao-Chỉ làm quan như dân Hán,từ đây người Việt được dự vào các chức quan lại trong nguồn máy cai trị của Đông-Hán.Sĩ-Nhiếp(187-226) là quan thái-thú ở Giao-Chỉ từ năm 187,lúc này ở Giao-Chỉ loạn lạc khắp nơi,dân tình không yên,Sĩ-Nhiếp bình định được giặc ngoài,bên trong trị dân có phép và chăm sự dạy bảo dân lành,Sĩ-Nhiếp cùng các anh em của ông chia nhau mà cai trị các châu khác,thời thế thật sự thái-bình,lòng dân cảm phục,bởi thế trong sử có ghi Việt-Nam có văn hóa bắt đầu từ thời Sĩ-Nhiếp.Năm 226 (năm thừ 5 Tôn-Quyền làm vua Đông-Ngô) Sĩ-Nhiếp mất,con ông là Sĩ-Huy tự phong làm thái  thú,sau Đông-Ngô đến cai trị đưa Lục-Dần làm thái thú Giao-Châu thay Sĩ-Huy.
2-Đời Tam-quốc.(220cn-265cn).Tôn-Quyền vua nước Đông-Ngô thống trị nước ta,dân tình khổ sở.Năm 248 sai Lục-Dần làm thứ sử Giao-Châu,có bà Triệu thị-Trinh người huyện Nông-Cống ở cùng với anh là Triệu-quốc-Đạt,trong nhà chị dâu độc ác ngòai thì quân Tàu hung dữ hà hiếp dân lành,bà tức giận giết chị dâu vào rừng tụ hợp nghĩa quân hơn ngàn người,lúc đó Bà chỉ 20 tuổi,bà khuyên anh cùng nổi dậy chốngTàu,người anh lại khuyên Bà không nên làm vậy,Bà có nói"Tôi muốn cởi gió đạp đường sóng dữ,chém cá tràng kình ở biển đông,chứ không bắt chước người đời cúi đầu còng lưng làm tì thiếp người ta".Năm 248 người dân không chịu được sự hung ác của quân Tàu,nên Triệu-quốc-Đạt mới nổi dây chống Đông-Hán,Triệu-thị-Trinh bèn đem quân ra giúp anh mình,lúc này quân dân tôn bà làm Nhụy-kiều tướng-quân,bà làm chủ soái thống lảnh ba quân đánh với quân Tàu hơn 6 tháng,ví thế cô bà bị vây ở xã Bồ-Điền,và tự tử chết tại đây.Về sau Nam-Đế nhà Tiền Lý khen Bà là người trung nghĩa sail lập miếu thờ tại xã Phú-Điền huyện Mỹ-Hóa tỉnh Thanh-Hóa ngày nay.Qua 2 cuộc khởi nghĩa của 2 Bà-Trưng,Bà-Triệu,cho ta thấy trong dân gian kính trọng người phụ nữ như thế nào,lúc nào cũng tôn lên làm soái tướng hoặc là vua,vì xã hội trong thời này vẩn còn duy trì phong tục "mẩu hệ",lòng người kính trọng người phụ nữ hơn.
3-Nhà Tấn.(265cn-420cn).Trong thời kỳ nay vì bên Tàu loạn lạc tình hình nhà Tấn không được ổn định giặc gỉa khắp nơi,bởi thế ở Giao-Châu tùy vào các quan thái thú,đời sống dân gian vẩn bị hà hiếp khổ cực.Thời đó nước Lâm-Ấp (Chiêm-Thành) thường hay quáy nhiểu Giao-Châu,quan quyền chỉ lo việc chống ngoại xâm,năm 420 Đổ-tụê-Đô cử binh bình định Lâm-Ấp nhưng đối với dân Giao-Chỉ sự cai trị của nhà Tấn cũng như các thời Đông-Hán Đông-Ngô,quan lại tham ô hà hiếp dân lành,dân tình khổ sở loạn lạc khắp nơi.Lúc này bên Tàu được phân quyền cai trị bởi Nam-Bắc Triều.
4-Nam Bắc Triều.(420cn-588cn).Nhà Tấn thua,Nam-Bắc triều thay thế,năm 433 vua Lam-Ấp Phạm-dương-Mại viện lý do đem lễ vật sang tấn cống nhà Tống và xin cai trị Giao-Châu,vua Tống không bằng lòng,bởì vậy quân Chiêm-Thành thường đem quân sang cướp phá quáy nhiễu Giao-Châu.Năm 479 nhà Tống mất,nhà Tề kế  nghiệp trị vị được 22 năm thì nhà Lương lên thay,nhà Lương sai Tiêu-Tự làm thứ sử Giao-Châu,Tiêu-Tự tàn ác hung bạo khiến đời dân khổ sở,thời này có ông Lý-Bôn(Lý-Bí) thấy bất bình  nổi lên đánh nhà Lương.
*Lý-nam-Đế (544-548).Lý-Bôn người Tàu sống ở Giao-Châu 7 đời nổi lên diệt Tiêu-Tự,lảnh đạo dân quân địa phương chống lại nhà Lương,chỉnh sang mọi việc,tính cơ nghiệp lâu dài,năm 543 Lam-Ấp sang cướp phá,ông sai Phạm-Tu vào đánh tại Cữu-Đức(Hà-Tỉnh),quân Lâm-Ấp thua chạy.Năm 544 ông tự xưng là Nam-Việt-Đế lấy quốc hiệu là Vạn Xuân.Năm 545 nhà Lương đem quân sang đánh,Lý-Bôn bỏ chạy về đất Phong-Châu(Vỉnh-Yên),cầm cự hơn 1 năm ông trao binh quyền cho tả tướng quân Triệu-quang-Phục,ông trở về Khuất-Liêu ở mãi đến năm 548 ông mất.
*Triệu-Việt-Vương (548-557).Triệu-quang-Phục được tin Lý-Bôn mất,lúc này bên Tàu nhà Lương đang loạn,Triệu-quang-Phục thừa thế đánh đuổi quân Lương chiếm thành Long-Biên,tự xưng Triệu-Việt Vương,còn anh của Lý-Bôn là Lý-thiên-Bảo và người bạn cùng họ Lý-phật-Tử bị quân Lương đánh bại chạy sang đất Lào đóng ở động Dã-Năng xưng là Đào-lang-Vương lấy quốc hiệu là Dã-Năng,(Tình cảnh này tựa như Hồ-chí-Minh sống tại hang Pác-Bó ở Lào).Năm 555(năm thứ 7 Triệu-việt-Vương)Lý-thiên-Bảo mất,không có con binh quyền về tay Lý-phật-Tử.
*Hậu-Lý-nam-Đế.(571-602).Sau 2 năm Lý-thiên-Bảo mất.Năm 557 Lý-phật-Tử đem binh đánh Triệu-việt-Vương,đánh nhau mấy trận không phân thắng bại Lý-phật-Tử cầu hòa,Triệu-quang-Phục nghỉ tình họ Lý nên chịu hòa thuận lấy Bãi Quân-Thần(làng Thượng-Các huyện Từ-Liêu)làm giới hạn,còn gả con gái cho Lý-phật-Tử để thông gia với nhau,(Trong giai đoạn từ năm 557 đến năm 571,dân Việt chịu bởi 2 thế lực,Triệu-quang-Phục và Lý-phật-Tử,nhưng dân vẩn sống trong hòa-bình).Năm 571 Lý-phật-Tử thình lình đem quân đánh Triệu-việt-Vương,Triệu-quang-Phục thua chạy đến sông Đại-Nha(Nam-Định) tự tử,sau này dân kính mến lập đền thờ Ông Triệu-quang-Phục ở Đại-Bồ huyện Đại-An để nhớ ơn.Lý-phật-Tử xưng vương,người đời gọi là Hậu Lý-nam-Đế(571-602) đóng đô ở Phong-Châu,sai Lý-đại-Nguyên giữ Long-Biên,sai Lý-phố-Đỉnh giữ Ô-Diên.Năm 602 bên Tàu nhà Tùy bình định Nam-Bắc triều xong,đem quân qua đánh Nam-Việt,Lý-phật-Tử xin hàng và chịu thần phục như xưa.Từ đây,Giao-Châu thêm 336 năm đô hộ của phương Bắc.
 
Nhận-định.
*Như ta nhận thấy từ đời vua Hùng-Vương,cuộc sống dân gian theo mẩu-hệ,rồi từ thời An-dương-Vương đến giòng họ Triệu-Đà(257tcn-111tcn) 146 năm theo phụ-hệ,như vậy người Việt thật sự theo hệ nào trong đời sống dân-gian?Đọc qua 2 thời kỳ Bắc thuộc đầu tiên ta thấy,lần thứ I Bắc thuộc người lảnh đạo đánh Tàu là 2 Bà-Trưng(40-43),lần thứ II Bắc thuộc là bà Triệu-thi-Chinh mà ta quen gọi là Bà-Triệu đem binh ra giúp anh là Triệu-quốc-Đạt lại được toàn quân tôn làm"Nhụy-Kiều tướng-quân"thống lảnh toàn quân đánh Tàu,điều đó cho ta thấy,thời đó (248) uy quyền của phụ nữ rất cao trong xã-hội như trong gia-đình Triệu-quốc-Đạt có vợ hung tàn độc ác khiến Bà Triệu tức giận giết chị dâu rồi vào rừng mộ binh đánh Tàu,sự kiện này đủ nói lên trong đời sống dân gian người Việt thời này vẩn theo mẩu hệ.Vậy ta nên đặt câu hỏi trong thời Thục-Phán và Triệu-Đà có thực là người Việt không ?Vì 2 triều đại này
vẩn theo phụ hệ khác với đời sống của dân Lạc-Việt.
*Trong thời Tiền Lý (544-602) tính ra ta có 58 năm độc lập,nhưng vì sự tranh quyền của 2 tên bất tài Lý-thiên-Bảo và Lý-phật-Tử,cuối cùng Lý-phật-Tử phải xin hàng nhà Tùy để được an nhàn khi quân Tùy đem binh sang đánh Nam-Việt,những người như Lý-thiên-Bảo và Lý-phật-Tử trong thời nào cũng có,làm sao ngăn chận được bọn này,lúc đó nước Việt-Nam mới tránh được chiến tranh,dân mới thật sự có thái bình.
-C-Bắc thuộc lần thứ III.(603cn939cn).
1-Nhà Tùy(589-617).Vua Tùy bìết được nước Lâm-ẤP có nhiều vàng bạc,nên năm 605 vua Tùy sai Lưu-Phương sang đánh,Lưu-Phương bày mưu thắng đoàn quân hùng hậu có nhiều voi rừng của vua Lâm-Ấp Phạm-phạm-Chí tại sông Đồ-Lê,Lưu-Phương thắng trận và được nhiều vàng bạc châu báo nhưng cuối cùng Lưu-Phương cũng bị bạo bệnh mà chết trên đường rút binh về nước.
2-Nhà Đường(618-907).
Nhà Tùy bị diệt,Lý-Nguyên thống nhất Trung-hoa lập lên nhà Đường,năm 621 sai Khâu-Hòa làm tổng quản cai trị Giao-Châu,chia nước ta thành 12 châu để cai trị,luật lệ khắc khe và nghiêm ngặt hơn các triều đại trước,bởi thế đời dân rất khổ cực vả lại giặc cướp nổi lên khắp nơi từ Lâm-Ấp,Hoài-Vương(1) Nam-Chiếu(2) giặc bể(3) thường đem binh tới giết hai dân Việt,đời dân càng khổ thêm,cho nên dân ta thường bị các quan lại Tàu bắt làm nô lệ trong các đoàn quân đi dẹp loạn.Từ năm 864 nước Nam-Chiếu thường qua Giao-Châu cướp phá,quan lại địa phương không ngăn chận được,bắt đầu năm 860 Nam-Chiếu đưa quân qua chiếm đất,nhà Đường có cho quân qua đánh nhưng khó thắng được quân Nam-Chiếu,mãi đến năm 865 nhà Đường cử Cao-Biền sang làm tiết-độ-sứ và thống lảnh toàn quân,mới đánh lui quân Nam-Chiếu (866) ra khỏi Giao-Châu.Cao-Biền là tướng tài nhà Đường làm tiết-độ-sứ An-Nam,ông giỏi về quân sự,có tài văn chương,tinh thông địa lý,ông chỉnh đốn mọi việc ở Tinh-Hải (sau khi hàng phục được Nam-Chiếu nhà Đường đổi An-Nam là Tinh-Hải),sửa đổi thúê khóa xây đồn đấp lũy ở biên thùy,khai phá ghềnh thác chỉnh trang thủy lợi,xây thành Đại-La ở bờ sông Tô-Lịch,trị dân có phép,người dân rất kính nể,thường gọi ông là Cao-Vương,năm 875 ông được triệu hồi về làm tiết-độ-sứ ở Tây-Xuyên và cháu của ông là Cao-Tần làm tiết-độ-sứ Tinh-Hải.
 
 Chú thích:
*(1) Lâm-Ấp và Hoài-Vương là nước Chiêm-Thành sau này,thời Tùy Phạm-phạm-Chi là vua Lâm-Ấp,đến đời nhà Đường vua Lâm-Ấp là Phạm-đầu-Lê,Phạm-đầu-Lê mất,con là Phạm-trấn-Lang lên thay cũng bị giết,dân trong nước lập con của bà cô là Chư-cát-Địa lên làm vua,đổi quốc hiệu là Hoài-Vương quốc,nước Hoài-Vương đánh chiếm Châu-Hoan và Châu-Ai,năm 808 quân Đường đánh quân Hoài-Vương lui về giữ phía nam Quảng-nam Quảng-Ngãi bây giờ,từ đây đồi là Chiêm-Thành.Trong phần này ta thấy,con của bà cô Phạm-đầu-Lê là Chư-cát-Đạt,có nghĩa là mẹ và cô của Phạm-đầu-Lê là họ Chư,(vì trong xã hội mẩu hệ,người làm vua vẩn mang họ cha),vì thế khi bà cô Phạm-đầu-Lê lên tiếng đưa con là Chư-cát-Địa lên làm vua thần dân đếu ủng hộ và đổi nước Lâm-Ấp thành nước Hoài-Vương.Điều này Lạc-long-Quân Sùng-Lãm đã thấy rỏ ngay từ đầu cái họa xã-hội mẩu-hệ khi người làm vua vẩn mang họ cha,nên đặt họ Hồng-Bàng chỉ dành riêng cho vua Hùng-Vương mà thôi.
*(2)Nam-Chiếu:Các tộc Thái ở  phía bắc Việt-Nam và tây-bắc tỉnh Vân-Nam Tàu gồm có 6 chiếu,chiếu có nghĩa là vua,Mông-Huề,Việt Thác,Lãng-Khung,Đằng-Đan,Thi-Lãng,và Mông-Xá,Mông-Xá ở về phía nam nên gọi là Nam-Chiếu,Nam-Chiếu thế rất mạnh chinh phục 5 chiếu khác và xin hàng phục nhà Đường,Nam-Chiếu thường đem binh đi đánh Phổ-Thồn(Tây-Tạng)và Giao-Châu.Sau này đổi tên là nước Đại-Lý.
*(3)Giặc biển là nhóm người từ ngoài đảo Côn-lôn và đảo Đồ-Bà thường vào Giao-Châu đánh cướp dân làng.
*Mai-hắc-Đế.(722)
Năm 722 ở Hoan-Châu(Nghệ-An) có Mai-thúc-Loan nổi lên chống cự quan lại địa phương,chiếm được thành,xây thành đắp lũy,xưng là Mai-hắc-Đế hợp với Lâm-ẤP và Chân-Lạp làm ngọai viện chống lại quân Đường.Vua Đường sai Dương-tư-Húc và Quang-sở-Khách sáng đánh,vì thế cô nên bị thua mà chết,dân làng nhớ công ngài lập miếu thờ ở xã Hương-Lãm huyện Nam-Đường tỉnh Nghệ-An.
*Bố-Cái Đại-vương.(791).
Năm 791 ở quận Đường-Lâm(Sơn-Tây) có quan đô hộ nhà Đường Cao-chính-Bình tàn ác dân lành,bắt dân sưu cao thuế nặng lòng dân oán hận,ông Phùng-Hưng nổi lên đánh bại Cao-chính-Bình và chiếm được thành trì,chỉ vài tháng sau ông bị bịnh mà chết,con là Phùng-An lên nối nghiệp cha.Tháng 7 cùng năm,nhà Đường cử binh sang đánh và dẹp yên.Dân gian tưởng nhớ công Phùng-Hưng lập miểu thờ cúng gọi ông là Bố-Cái-Đại-Vương.(bố nghĩa là cha,cái nghĩa là mẹ). 
3-Đời Ngũ-Qúy(907-959).
Nhà Đường mất,bên Tàu chia ra Hậu-Lương,Hậu-Đường,Hậu-Tấn,Hậu-Hán,Hậu-Chu gọi là Ngũ-Qúy hay Ngũ-Đại,trong lúc này ở Giao-Châu họ Khúc dấy nghiệp.
*Khúc-thừa-Dụ(906-907).
Cuối đời Đường(906) các quan huyện vùng Giao-Châu làm loạn,dân gian bất an,dân bèn đề cử Khúc-thừa-Dụ làm tiết độ sứ,ông là người phú hộ biết lo và giúp đở dân lành,vua nhà Đường cùng thuận phong ông làm đồng binh chương sư.Năm 907 nhà Đường mất nhà Lương lên thay,phong Lưu-Ấn làn Nam-bình-Vương kiêm tiết độ sứ Quảng Châu và Tinh-Hải để cai trị Giao-Châu,Lưu-Ấn đóng phủ ở Phiên-Ngung,trong năm này Khúc-thừa-Dụ bị bệnh mất.
*Khúc-Hạo(907-917).
Năm 907 Khúc-thừa-Dụ mất con là Khúc-Hạo lên thay,chỉnh đốn mọi việc và chỉnh sang việc thuế,cho con sang Quảng-Châu làm thông hiếu nhưng cốt để thăm dò tình hình.Lưu-Ấn ở Phiên-Ngung được 4 năm thì mất,em là Lưu-Cung (Lưu-Nham) lên thay,năm 911 Lưu-Cung tự xưng đế lấy quốc hiệu là Đại-Việt,mãi đến năm 917 đổi là Nam-Hán.Trong đoạn này (911-917) ta thấy Lưu-Cung có ý đồ thống trị dân Việt,nên lấy quốc hiệu là Đại-Việt,ngưng mãi đến năm 917 Khúc-thừa-Mỹ không phục Lưu-Cung,nên Lưu-Cung đổi Đại-Việt thành Nam-Hán,đây là lối chính trị người Hán thường áp dụng.(Đây là lối không cần đánh để khuất phục đối phương).
*Khúc-thừa-Mỹ.(917-923).
Năm 917 Khúc-Hạo mất,con Khúc-thừa-Mỹ lên thay,nhận biết được ý đồ Nam-Hán,nên nhận chức tiết độ sứ nhà Lương mà không thần phục Nam-Hán.Năm 923 Nam-Hán sai Lý-khắc-Chỉnh lảnh bộ binh Lý-Tiến lảnh thủy binh cùng tiến đánh Giao-Châu và diệt giòng họ Khúc.Đây nói lên tính thông minh của Khúc-thừa-Mỹ nào ai biết được.
Sử rằng chỉ có mấy câu.
Nào ai để ý biết đâu mà làm.
Ôi thôi sử qúa làm nhàm.
Người sau sao hiểu câu đàm sử gia.
*Dương-diên-Nghệ và Kiều-công-Tiển(931-938).
Năm 931 Dương-diên-Nghệ là tướng Khúc-Hạo mộ binh đánh lại Lý-khắc-Chỉnh và Lý-Tiến,tự làm tiết độ sứ Giao-Châu,đánh được 6 năm Dương-diên-Nghệ bị gia tướng là Kiều-công-Tiển giết và cướp lấy binh quyền,được tin cha vợ mất Ngô-Quyền đem binh chinh phạt.Trong giai đoạn này ta thấy Dương-diên-Nghệ đẵ bắt đầu ly khai nhà Lương và tự lảnh đạo quân Giao-Châu chống lại Nam-Hán trong 6 năm liền.
*Ngô-Quyền phá quân Nam-Hán.(938-939)
Kiều-công-Tiển cầu Nam-Hán giúp,quân Nam-Hán chưa kịp đến Ngô-Quyền đã bắt được Kiều-công-Tiển và giết.Vua Nam-Hán sai con là Hoàng-Thao lảnh thủy binh tấn công từ sông Bạch-Đằng,Ngô-Quyền dùng cọc gỗ lớn đầu bọc sắt cấm dưới lòng sông,chờ khi nước ròng Ngô-Quyền tấn công,quân Nam-Hán loạn vì thuyền tự nhiên bị chìm,Hoàng-Thao bị loạn tên bắn chết trên sông Bạch-Đằng.
 
Thời đại độc lập.
Nhà Ngô(939-965).
1-Tiền Ngô-Vương(939-944).
Ngô-Quyền đánh đuổi quân Nam-Hán,bắt đầu nền độc lập cho dân tộc Việt,đóng đô ở Cổ-Lao,năm 944 ông mất,được 47 tuổi,truyền ngôi lại cho con Ngô-xương-Xí lên thay,nhưng cậu là Dương-tam-Kha cướp ngôi lên làm vua xưng là Bình-Vương.(945).
2-Dương-bình-Vương(945-950).
Dương-tam-Kha cướp ngôi vua của cháu Ngô-xương-Xí,Ngô-xương-Xí biết được chạy đến Nam-Sách(Hải-Dương) ẩn trốn tại nhà Phạm-lịnh-Công,lúc này thổ hào các nơi cũng nổi lên khắp nơi chiếm vùng tự trị,Dương-tam-Kha bắt em Ngô-xương-Ngập (Ngô-vương-Văn) làm con nuôi.Năm 950 ở Thái-Bình(Tây-Sơn) có loạn,Dương-tam-Kha sai Ngô-vương-Văn cùng 2 tướng Dương-cát-Lợi và Đổ-Cảnh đem quân đi dẹp loạn,đi đến Từ-Liêm,Ngô-vương-Văn cùng 2 tướng ngược trở về bắt Dương-tam-Kha,nở tình cậu cháu Ngô-vương-Văn không nể giết chỉ giáng xuống làm Trương-dương-công.
3-Hậu Ngô-Vương (950-965).
Năm 950 Ngô-vương-Văn lên làm vua xưng là Nam-tân-Vương cho người rước anh Ngô-xương-Xí về cùng làm vua,Ngô-xương-Xí xưng là Thiên-sách-Vương,thời này gọi là Hậu Ngô-Vương có 2 người cùng làm vua,nhưng chỉ vài năm sau Ngô-vương-Văn đem quân đánh trận bị chết(loạn 12 sứ quân),chỉ còn Ngô-xương-Xí làm vua 1 mình mãi đến năm 965 thì mất.
Thập nhị sứ-quân(945-967).
 Ngô-Quyền mất,Dương-tam-Kha cướp ngôi vua của cháu(Ngô-xương-Xí),khiến thổ hào nổi lên khắp nơi (945) tự dựng một vùng gọi là sứ quân,về sau Ngô-vương-Văn khôi phục nghiệp củ,các sứ quân vẩn không chịu thần phục,Ngô-xương-Ngập phải lảnh binh chinh chiến liên tục bị chết tại chiến trường,Ngô-xương-Xí làm vua một mình.Đất nước lúc này gồm có 12 sứ quân:
1-Ngô-xương-Xí giữ Bình-Kiều,phủ Khoái-Châu (Hưng-Yên).
2-Đổ-cảnh-Đạt giữ Đổ-động-Giang,ở huyện Thanh-Oai.
3-Trần-Lãm tức Trần-công-Minh giữ Bố-hải-Khâu (Kỳ-Bố Thái-Bình).
4-Kiều-công-Hản tức Kiều-tam-Chế giữ Phong-Châu (huyện Bạch-Hạc).
5-Nguyễn-Khoan tức Nguyễn-thái-Bình giữ Tam-Đài (phủ Vỉnh Tường).     
6-Kiều-Thuận tức Kiều-lịnh-Công giữ Hồi-Hồ (Cẩm-Khê Sơn-Tây).
7-Ngô-nhật-Khánh tức Ngô-lãm-Công giữ Đường-Lâm (Phúc-Thọ Sơn-Tây).        
8-Lý-Khoe tức Lý-lang-Công giữ Siêu-Loại (Thuận-Thành).
9-Nguyễn-thủ-Thiệp tức Nguyễn-lịnh-Công giữ Tiên-Du (Bắc-Ninh).
10-Lữ-Đường tức Lữ-tả-Công giữ Tề-Giang (Văn-Giang Bắc-Ninh).
11-Nguyễn-Siêu tức Nguyễn-hữu-Công giữ Tây-phù-Liệt(Thanh-Trì Hà-Đông).
12-Phạm-bạch-Hổ tức Phạm-phòng-Át giữ Đằng-Châu (Hưng-Yên).
Nhà Đinh (968-980).
*1-Đinh-thiên-Hoàng(968-979).
Đinh-bộ-Lĩnh là người Hoa-lư-Động(Ninh-Bình),con ông Đinh-công-Trứ làm quan thứ sử dưới thời Dương-diên-Nghệ và thời Ngô-Quyền Vương,đến đầu Trần-minh-Công(Trần-Lãm),Trần-Lãm tin dùng và giao giữ binh quyền,sau Trần-Lãm mất,ông chiêu mộ thêm binh mã,hào kiệt khắp nơi hưởng ứng,năm 951 thời Hậu Ngô-Vương-Văn có đem binh sang đánh với Đinh-bộ-Lĩnh nhưng không thắng được,năm 965 Ngô-Vương(Ngô-xương-Xí) mất,Đinh-bộ-Lĩnh hàng được Phạm-bạch-Hồ(Phạm-phòng-ÁT),phá được Đổ-cảnh-Thạc và các sứ quân khác đều thần phục,được tôn là Vạn-thắng-Vương.Năm 968 Đinh-bộ-Lĩnh Vạn-thắng-Vương lên ngôi Đinh-thiên-Hoàng quốc hiệu là Đại-cồ-Việt đóng đô ở Hoa-Lư,xây cung điện lập chế triều nghi,định phẩm hàm các quan văn võ trong triều,phong Nguyễn-Bắc làm định-quốc-công,Lê-Hoàn làm thập đạo tướng quân,Đinh-Liễn làm Nam-quốc-Vương.Năm 970 đặt niên hiệu là thái bình nguyên niên,đặt năm ngôi hoàng hậu,trong lúc này bên Tàu Triệu-khuôn-Dẩn đã lên làm vua lập lên nhà Tống(sau này gọi là Bắc Tống) đem quân xuống đánh Nam-Hán,Đinh-thiên-Hoàng muốn tránh việc chiến-tranh bèn làm thông hiếu(thuận việc triều cống) với nhà Tống,bên trong tổ chức lại quân cơ phòng địch tấn công,tổ chức quân đội thành 10 đạo mổi đạo 10 vạn quân, trên thực tế  nhà Đinh chỉ có 10 vạn quân đều dưới sự thống lãnh của tướng quân Lê-Hoàn.Đinh-thiên-Hoàn bỏ trưởng lập ấu,cho con út Hang-Lang làm thái tử,con trưởng Nam-quốc-Vương Đinh-Liễn bày mưu giết Hang-Lang.Năm 979 Đinh thiên-Hoàng và Việt-quốc-Vương bị Đổ-Tích giết chết,đình thần bắt được Đổ-Tích trị tội và tôn Vệ-Vương Đinh-Tuệ làm vua.(Tục truyền Đổ-Tích nằm chiêm bao thấy sao trên trời rơi vào miệng,tưởng mình có mạng làm vua nên Đổ-Tích chờ dịp Đinh-thiên-Hoàng say rượu ngủ mê rồi ra tay giết vua và giết cả Việt-quốc-Vương Đinh-Liễn,nhưng khi ta đọc tiếp sự tình ở sau ta thấy rõ:Đây là âm mưu củ Lê-Hoàn và bà Dương-thái-Hậu,vì 2 người đã tư tình với nhau).
Kẻ dâm ô tục tằng có chước.
Bày mưu gian hãm hại Minh-quân.
Người đời đâu hiểu rõ chân tình.
Bởi sử viết theo lời Bạo chúa.
*2-Phế-Đế(979-980).
Đinh-thiên-Hoàng mất Đinh-Tuệ lên làm vua mới có 6 tuổi,mọi việc triều chánh đều ở trong tay Dương thái hậu và thập đạo tướng quân Lê-Hoàn,Lê-Hoàn cùng Dương-Hậu tư thông từ lâu,nhầm lúc bên Tàu nhà Tống đem quân sang đánh,quân Tống gần đến biên giới Lê-Hoàn sai Phạm-cự-Lương làm đại tướng đánh giặc Tống,trước khi xuất quân Phạm-cự-Lương tôn Lê-Hoàn lên làm hoàng-đế để khích lệ lòng quân,cả đoàn quân đều tung hô ủng hộ,Dương hậu bèn đem ấn tín áo mảo của Đinh-thiên-Hoàng trao cho Lê-Hoàn,thế là Đại-cồ-Việt mất,Đại-Việt có triều đại mới,trong lịch sử ta gọi đây là Tiền-Lê.Như vậy nhà Đinh làm vua được 12 năm.
Tình thế gấp kẻ khôn tạo thế.
Lấy thông minh che lấp gian tà.
Đời lẩn lộn thế cuộc gian manh.
Bưng bít mãi triền miên sử sách.
 
Nhận định.
A-Trong 2 triều đại Ngô-Đinh,2 ông vua đầu đều có vợ là họ Dương,trong thời vua Ngô,Dương-tam-Kha em vợ của vua cướp ngôi vua của cháu mới gây nên loạn 12 sứ quân,trong thời vua Đinh-thiên-Hoàng có vợ cũng họ Dương tư thông với Lê-Hoàn,bày  ra chuyện Đổ-Tích nằm mơ mình sẽ là vua rồi bày mưu sự giết vua,sau đó Lê-Hòan lên ngôi vua với danh chánh ngôn thuận là vua châh chính do toàn quân đưa lên,nhưng ngày nay với nhận xét của chúng ta đều thấy sự kiện này đều có liên quan đến người vợ họ Dương,cho ta thấy được trong thời đại này người phụ nữ vẩn còn ảnh hưởng đến quan niệm của một xã-hội đã từng theo mẩu hệ
B-Họ Hồng-Bàng là một thể chế chính trị được đặt ra bởi Sùng-Lãm trong một xã-hội theo mẩu-hệ,vì trong xã hội mẩu hệ con sinh ra phải mang họ mẹ,người mẹ có nhiều ưu thế trong gia đình,trong xã hội mẩu hệ người nam rất qúy trọng người nữ,nhưng trong lảnh đạo quốc gia vẩn thuộc về người nam,dân tộc Việt-Nam ta có Kinh-dương-Vương Lộc-Tục,vua thứ nhì là Lạc-long-Quân Sùng-Lãm,nếu cứ thế mà tiếp tục thì ta
sẽ có nhiều họ khác nhau trong các đời vua kế tiếp,như thế triều đại dễ bị sụp đổ bởi quyền của người mẹ,muốn cũng cố cho triều đại lâu dài,nên Sùng-Lãm mới đặt luật lệ (luật lệ không thành văn),"người làm vua gọi là Hùng-Vương có họ là Hồng-Bàng",còn tất cả anh em khác vẩn theo họ mẹ,điều đó cho ta thấy triều đình chỉ có 1 người duy nhất điều hành đó là vua Hùng-Vương,chính con đầu của Sùng-Lãm là vị vua Hùng-Vương đầu tiên mang họ Hồng-Bàng,như thế Sùng-Lãm không trái với luật xã-hội thời đó(mẩu-hệ),đồng thời củng cố thể chế chính trị trong các đời vua kế tiếp.
"Luật được tôn trọng xã-hội mới yên ổn".Sùng-Lãm đúng thật một luật gia đầu tiên của Việt-Nam.Bởi thế ta có thể nóì họ Hồng-Bàng chỉ có 18 vị vua Hùng-Vương mới mang họ này mà thôi.
C-Chuyện 100 người con của Sùng-Lãm và Âu-Cơ,vì thời này dân tộc ta vẩn chưa có văn hóa,mọi sự việc đều do truyền miệng truyền đến đời sau,khi vừa sanh 100 người con Sùng-Lãm nói với Âu-Cơ "Ta là rồng nàng là tiên,thủy hỏa không hợp nên phải chia nhau,nàng dẩn 50 con lên núi ta dẩn 50 con xuống biển"lời nói đó cho ta thấy  rỏ chữ "Hòa"(thủy hỏa không hợp),50 người con theo mẹ lên núi 50 người con theo cha xuống biển,cho ta thấy rỏ chữ "Bình",núi và biển nói về thiên nhiên cho ta
thấy sự yên tỉnh và tự nhiên của vũ trụ,nói rỏ chữ "Thái" và chữ "Thanh",nói lên sự đời không mờ đục,không ẩn ý,không gian dối,mọi việc đều tỏ rõ và chân thành.Đây là tư-tưởng của Sùng-Lãm,đem quan niệm "Tam-bình" trực tiếp vào cuộc sống để tạo đời sống thái-hòa trong dân-gian.Hình ảnh con vua sống cùng với dân gian gợi lên hình ảnh các quan lảnh đạo đều là anh em một nhà,để tránh việc tranh dành quyền lợi mà đánh lộn với nhau.Quan niệm Tam-bình thực sự đem lại THANH-BÌNH HÒA-BÌNH VÀ THÁI-BÌNH cho dân tộc Việt trong suốt 18 đời vua Hùng-Vương.
Những lời nhận định này là quan điểm cá nhân người viết,chuyện lịch sử là chuyện chung của tất cả mọi người,xin tất cả chung góp bàn tay cùng xây dựng cho đất nước Việt-Nam.
 
Được-Lời (LKC) Ngày 23-04-2013
 
 

No comments:

Post a Comment