Monday, July 14, 2014

Rồng VIỆT-NAM Lạc-long-Quân

Rồng VIỆT-NAM
Lạc-long-Quân
Nói đến lịch-sử Việt-Nam thì mọi người đều biết chuyện Lạc-long-Quân cùng bà Âu-Cơ sinh ra 100 người con,trong lúc làm vua ông nói với bà Âu-Cơ rằng "Ta là giống rồng,nàng là giống tiên,thủy hỏa khắc nhau,chung hợp thật khó",rồi từ biệt nhau,Âu-Cơ dẩn 50 con lên núi,Lạc-long-Quân dẩn 50 con về vùng duyên hải,bởi thế có chuyện người Việt là con cháu Tiên-Rồng,câu nói rất đơn-giản nhưng ngầm chứa một triết-lý cao
siêu,nói lên một chế độ quân-chủ tự-do (Người làm vua gọi là Quân,chứ không gọi là Đế hay là Vương),trong một xã-hội mẩu-hệ (Tiên-Rồng chứ không gọi là Rồng-Tiên),chính quan niệm này làm ổn-định 18 đời vua Hùng-Vương,đều do bởi một "Minh-Quân con rồng Lạc-Việt".Để hiểu thêm về sự-tích này mời các bạn cùng nghiên-cứu 5 quyển sử sau đây:
1-An-Nam chí lược.
Tác-gỉa Lê-Tắc,viết năm 1335.
Dịch gỉa:Ủy ban phiên dịch lịch sử Việt-Nam năm 1960.
Xuất bản do Viện đại học Huế năm 1961.
Sách viết nước An-Nam có giao thông với Trung-Hoa,thời vua Chuyên-Húc,phía bắc đi tới U-Lăng phía nam đi tới Giao-Chỉ,thời vua Nghiêu sai Hy-Hòa qua đất Nam-Giao,thời vua Thuấn sai Vũ qua Nam-yên-Vổ Giao-Chỉ,qua thời Chu-thành-Vương(1115tcn-1079tcn) họ Việt-Thường có sứ gỉa 9 lần qua triều-cống Tây-Chu,nước VT từ đất Cửa-Châu ở phía nam Giao-Chỉ.Năm tân-mẹo (1109tcn) sứ-giả Việt-Thường đến Tây-Chu diện kiến Chu-Công và nói:"Trời không gió bão mưa to,ngoài biển không nổi sóng dữ đã 3 năm,chắc Trung-Hoa có thánh nhân trị vị,sao chẳng đến chầu".Chu-Công đáp:"Vui thay,chẳng phải Đán(1) có tài,mà nhờ đức của Văn-Vương đó".
Từ đây ta thấy Giao-Chỉ là vùng đất riêng biệt ngòai lãnh thổ Trung-Hoa.Điều này nói lên từ thời vua Chuyên-Húc đến thời Chu-Thành-Vương Tây Chu địa thế Việt-Thường nằm ngoài vùng quản trị của Trung-Hoa.Trong năm 1109tcn sứ-giả Việt-Thường được diện kiến Chu-Công,phải là vua Việt-Thường hay con của vua,chắc ta phải nhận đó là con vua Kinh-dương-Vương,Sùng-Lãm,sau này là Lạc-long-Quân.
2-Việt-Nam sử lược.Viết năm 1377-1388,tác gỉa khuyết danh.
Dịch gỉa:Nguyễn-gia-Tường viết năm 1972,và xuất bản vào 1993.Sách viết Hoàng-Đế (ông vua đầu tiên của TH) dựng lên muôn nước,thấy Giao-Chỉ xa xôi ở ngoài cỏi Bách-Việt (vùng Hồ-nam,Quảng-Đông,Quảng-Tây,Vân-Nam,Quế-Châu) không thể thông thuộc được,bèn phân ranh giới gốc Tây-nam.Gồm có 15 bộ-lạc (2) không thuộc châu quản-trị của Hoàng-Đế. (3)
-Vào thời Tây-Chu đời Chu-thành-Vương có sứ từ Việt-Thường đến dâng chim trĩ.
-Vào thời Đông-Chu đời Chu-trang-Vương (696tcn-682tcn) ở châu Gia-Ninh có người lạ dùng tà thuật quy phục các bộ-lạc tự xưng là Hùng-Vương,đóng đô ở Văn-Lang (sách sử khác đều ghi là Phong-Châu).Quốc hiệu là Văn-Lang.(Điểm này ta thấy sử sai rõ ràng).
3-Đại-Việt sử ký toàn thư,viết năm 1679 (Chính-Hòa thứ 18).
Tác-gỉa Lê-văn-Hưu,Phan-phu-Tiên,Ngô-sĩ-Liên.
Dịch-giả:Viện khoa-học xã-hội VN (1985-1992).
Nhà xuất-bản:Khoa-học XH Hà-nội (1993).
Sách viết Đế-Minh cho con trưởng Đế-Nghi làm vua phương Bắc,phong Lộc-Tục làm vua phương Nam,xưng là Kinh-dương-Vương,là thủy-tổ Bách-Việt,có con là Sùng-Lãm kết hôn với bà Âu-Cơ,con của Đế-Lai,cháu nội của Đế-Nghi,nói rõ ra Âu-Cơ là cháu chú bác của Sùng-Lãm,vì ở Việt-Thường theo mẩu hệ,Bắc phương theo phụ hệ nên Âu-Cơ họ Đế,2 người kể như người khác họ.
 Họ Hồng-Bàng kể từ năm nhâm-tuất đến năm quý mảo (2879tcn-258tcn),sách cũng ghi Chu-thành-Vương tại vị khoảng năm (1063tcn-1026tcn).
4-Quyển khâm-định Việt-sử thông-giám cương-mục.
Soạn giả quốc sử giám triều Nguyễn (1856-1881).
Dịch gỉa Viện sử học (1957-1960).
Điểm đặc biệt trong quyển sử này ghi là "Lạc-long-Quân là tổ tiên của Bách-Việt,chức vua được cha truyền con nồi theo phụ hệ (con sinh ra lấy họ cha)"
5-"Việt-Nam sử lược" và "Việt sử toàn thư" đều là quyền sử-ký do ôngTrần-trọng-Kim viết năm 1919 bằng chữ Việt như ta viết ngày nay,các ngày tháng bằng âm lịch đều phụ thêm tây lịch.Tuy là quyển sử viết sau nhưng có tầm ảnh hưởng lớn trong quần chúng,vì được phổ thông truyền dạy trong ngành giáo-dục học đường.
Đọc qua ta thấy đươc Trần-trong-Kim chỉ dựa vào 2 quyển Việt-Nam sử-lược (1377-1388) và quyển Đại-Việt sử-ký toàn thư (1679),đồng thời ông xác nhận Việt-Nam sử-lược là quyển sử đầu tiên của Việt-Nam,cũng chính ông xác nhận Kinh-dương-Vương là vua đầu tiên của họ Hồng-Bàng.
Ông viết Đế-Minh cháu 3 đời vua Thần-Nông nam du đến núi Ngũ-linh gặp Vụ-Tiên sinh Lộc-Tục,Đế-Minh truyền ngôi cho con trưởng Đế-Nghi làm vua phương Bắc,và Lộc-Tục làm vua phương Nam,xưng là King-dương-Vương lấy quốc hiệu là Xích-Qũy,họ Hồng-Bàng bắt đầu từ đây (2879tcn-258tcn).Lộc-Tục lấy con gái Động-đình-Quân là Long-Nữ sinh ra Sùng-Lãm (4),Sùng-Lãm lên ngôi vua gọi là Lạc-long-Quân,quốc-hiệu là
Văn-Lang,đóng đô ở Phong-Châu.Đông giáp biển Nam-hải,tây giáp Ba-thục,bắc giáp hồ Động-đình,nam giáp Hồ-tồn (Chiêm-Thành).
I- Họ Hồng-Bàng.
Nói đến họ Hồng-Bàng thì tất cả người Việt đều nói đó là họ của 18 vị vua Hùng-Vương,vậy ai là tổ vua Hùng-Vương,theo "Đại-Việt sử-ký toàn thư"nói là Kinh-dương-Vương Lộc-Tục,theo quyển "Khâm-định Việt-sử thông-giám cương-mục"nói là Lạc-long-Quân Sùng-Lãm,để rõ họ Hồng-Bàng
bắt đầu từ người nào,thì chúng ta cần 2 chữ "Hồng-Bàng" ai nói ra trước.Trong thời Kinh-dương-Vương chỉ nói khi lên ngôi ông đặt quốc-hiệu là Xích-Qũy,còn trong thời Lạc-long-Quân khi lên ngôi ông đặt quốc hiệu là Văn-Lang,ra luật triều chánh,con trưởng nam lên làm vua họ Hồng-Bàng,cho nên ta thấy họ Hòng-Bằng là cái họ Lạc-long-Quân đặc ân cho vua
Hùng-Vương sau này,nếu chúng ta hiểu trong ý nghĩa này thì chúng ta sẽ rõ:"Nước Việt chỉ có 18 người mang họ Hồng-Bàng,đó là 18 vị Hùng-Vương",từ điểm này chúng ta mới tìm được họ Hồng-Bàng bắt đầu từ năm nào,muốn vậy chúng ta phải xác định năm nào khởi đầu vua Hùng-Vương
thứ nhứt.Muốn biết chúng ta cần hiểu rõ:
A-Nhìn vào những dữ kiện lịch sử chúng ta đều thấy sử Việt có liên quan đến các triều đại bên Trung-Hoa nên chúng ta cũng cần biết sơ qua về các triều đại bên Tàu.Nước Trung-Hoa bắt đầu vào :Từ Ngũ Đế (Hoàng Đế,Chuyên-Húc,Đế Khốc,Nghiêu,Thuấn,theo sử ký Tư-mã-Thiên):
*Hoàng-Đế (2698tcn-2574tcn) 124 năm.
*Trong thời (2574tcn-2333tcn) khỏang 241 năm không nói rõ,nhưng sách sử ghi:Trước Hoàng Đế có vua Phục-Hy dạy dân dùng lưới bắt cá,dùng bẩy bắt thú rừng,đến đời Thần-Nông thì dạy dân biết trồng trọt cày cấy,biết dùng lá rễ cây trị bịnh,sau Thần-Nông thì đến thời Hoàng Đế.(như thế ta thấy:Sử ký Tư-mã-Thiên ghi rõ Chuyên-Húc và Đế-Khốc ở trong thời 241 kế tiếp Hoàng-Đế).
*Vua Nghiêu (2333tcn-2233tcn) 100 năm,quốc hiệu là Đường.
*Vua Thuấn (2233tcn-2183tcn) 50 năm quốc hiệu là Ngu.
Thời Tam-Đại (Hạ từ 2205tcn-1767tcn,Thương từ 1766tcn-1123tcn,Chu từ 1122tcn-247tcn,theo sử ký Tư-mã-Thiên dịch bởi Giản-Chi và Nguyễn-hiến-Lê):
*Nhà Hạ bắt đầu từ vua Vũ (2183tcn-1751tcn) 432 năm.
*Nhà Thương (1751tcn-1111tcn) 640 năm.
*Nhà Chu (1111tcn-221tcn) 890 năm.Gồm
a-Tây-Chu (1111tcn-770tcn) 341 năm.
b-Đông-Chu (770tcn-221tcn) 549 năm,có 2 giai đoạn:
1-Thời Xuân-thu (770tcn-403tcn) 367 năm
2-Thời Chiến-quốc (403tcn-221tcn) 182 năm.
*Nhà Tần (221tcn-206tcn) 15 năm.Từ thời nhà Tần trong lịch sử Trung-Hoa xem như bắt đầu thời kỳ thống nhất của Trung-Hoa.
B-Nhìn về Việt-sử chúng ta nhận thấy những điểm giống nhau như :
a-"Cháu 3 đời vua Thần-Nông".Đây không xác định rỏ về thời-gian,nhưng người chép lại sử cứ cố tình chứng-minh cho hợp với cái năm "nhâm-tuất"trong sách sử đã ghi,nên chọn "năm nhâm-tuất 2879tcn gần thời vua Thần-Nông nhất có trước thời Hoàng-Đế 181 năm,như vậy ta thấy người viết sử chưa đọc đoạn trong Việt-Nam sử-lược nói:"Giao-chỉ xứ ngoài Bách-Việt,15 bộ-lạc không nằm trong hạt quản-trị của Hòang-Đế" và trong Đại-Việt sử-ký toàn-thư nói:"Mổi lần sứ Việt-Thường trở về đều có người dùng la-bàn để đưa sứ-gỉa về nước",cái la-bàn là phát minh đầu tiên trong thời Hoàng-Đế.Vậy trước Hoàng-Đế đất Việt-Thường chưa có,mà chỉ có sau thời Hoàng-Đế,cho nên nói năm nhâm-tuất 2879tcn là năm bắt đầu họ Hồng-Bàng thì không hợp lệ.
b-"Việt-Thường có sứ giã đến viếng Chu-thành-Vương".
Chu-thành-Vương là con Chu-võ-Vương,người đã diệt nhà Thương và thần phục các Chư-hầu lập lên Tây-Chu (1111tcn-770tcn).Trong các quyển sử đều viết Chu-thành-Vương (1115tcn-1079tcn),trước thời Tây-Chu 5 năm ? Điều này cho chúng ta nghiệm lại Tây Chu từ năm 1111tcn hoặc từ năm 1122tcn,để hợp với sử Việt chúng ta phải chọn năm 1122tcn theo quyển "Sử ký Tư-mã-Thiên" dịch bởi Giản-Chi và Nguyễn-hiến-Lê,Tây Chu bắt đầu từ năm 1122tcn. (5)
Chỉ riêng Đại-Việt sử-ký toàn thư ghi Chu-thành-Vương (1063tcn-1026tcn),điểm này không hợp với thời gian bắt đầu Tây-Chu,nên ta chỉ nhận Chu-thành-Vương trong khoảng năm (1115tcn-1079tcn).
c-"Họ Hồng-Bàng (từ năm nhâm-tuất đến năm qúy-mẹo).(2879tcn-258tcn).
Trong quyển Việt-Nam sử-lược ghi Việt-Thường có sứ đến dâng chim trĩ trong thời Tây-Chu Chu-thành-Vương (1115tcn-1079tcn),đồng thời cũng ghi vào thời Đông-Chu Chu-trang-Vương (696tcn-682tcn),có người dùng tà thuật quy phục các bộ-lạc,tự xưng là Hùng-Vương,điều này cho chúng ta thấy quyển Việt-Nam sử-lược nói về vua Hùng-Vương không đúng,vì trong khoảng năm (696tcn-682tcn) không có năm nhâm-tuất,vì năm nhâm-tuất 719tcn trước 696tcn 23 năm,và nhâm-tuất kế đến là năm 659tcn sau năm 682tcn là 23 năm.Xét về thời Chu-thành-Vương ta thấy năm 1079tcn là năm nhâm-tuất.
Từ sự giải thích trên chúng ta có thể nói :"Vua Hùng-Vương thứ nhứt bắt đầu từ năm nhâm-tuất 1079tcn đến cuối đời vua Hùng-Vương thứ 18 là năm qúy-mẹo 258tcn.Họ Hồng-Bàng mà chúng ta được biết đến khi Lạc-long-Quân lên ngôi vua,ông ra luật "Người làm vua phải là con trai trưởng,gọi là Hùng-Vương họ Hồng-Bàng",chúng ta phải hiểu chỉ có vua Hùng-Vương mới mang họ Hồng-Bàng,vậy họ Hồng-Bàng chỉ riêng cho 18 vi vua Hùng-Vương mà thôi.Chúng ta viết họ Hồng-Bàng (1079tcn-258tcn) trị vị tất cả 821 năm trung bình mổi vua được 45 năm.
Để chứng minh việc này ta có thể làm bài tính như sau:
*Năm nhâm-tuất gần ta nhất là năm 1982,
-nếu ta lùi lại 51x60=3060 năm,ta có năm 1079tcn,
-nếu ta lùi lại 81x60=4860 năm,ta sẽ có năm 2879tcn.
*Năm qúy mẹo gần ta nhất là năm 1963,
-nếu ta lùi lại 37x60=2220 năm,ta có năm 258tcn.
Theo trong quyển An-Nam chí-lược,năm tân-mẹo 1109tcn,Sùng-Lãm đi sứ qua Tây-Chu có gặp Chu-Công,nên Sùng-Lãm nhận rõ nhiều chuyện về Tây-Chu,như việc trị quốc ở Tây-Chu,việc Chu-văn-Vương có 100 người con,vào năm 1109tcn là năm thứ 6 của nhà Tây-Chu,Sùng-Lãm cần gần 1 năm
mới về đến Việt-Thường,đó là năm 1108tcn,từ năm 1108tcn Sùng-Lãm có mặt tại Việt-Thường và sau đó lên ngôi vua thay Kinh-dương-Vương,gọi là Lạc-long-Quân,vậy Lạc-long-Quân lên ngôi từ năm nào?Chúng ta không biết được,chúng ta chỉ biết năm 1079tcn là năm đầu tiên của vua Hùng-Vương thứ nhứt,từ năm 1109tcn-1079tcn là 30 năm,nói rỏ hơn Lạc-long-
Quân làm vua không qúa 30 năm năm 1079tcn là năm Lạc-long-Quân băng hà.Hằng năm ngày 10 tháng 3 âm lịch là ngày giổ Tổ Hùng-Vương,vậy Tổ Hùng-Vương là ai?Nhiều người nói là Vua Hùng-Vương thứ nhứt,nhưng trong quyển "Đại-Việt sử-ký toàn thư"có ghi,"Kinh-dương-Vương là thủy tổ cuả Bách-Việt"còn trong quyển"Khâm-định sử-Việt thông-giám cương-
mục "lại ghi "Lạc-long-Quân là tổ tiên Bách-Việt"(Bách-Việt là vùng Hồ-Nam,Quảng-Đông,Quảng-Tây,Vân-Nam),như trên vừa nói 15 châu thời Lạc-long-Quân ngoài vùng Bách-Viêt,vậy Bách-Việt có thể đúng vào thời Kinh-dương-Vương mà không đúng vào thời Lạc-long-Quân.Tại sao?Vì vùng Bách-Việt đã chia cho bà Âu-Cơ cùng 50 người con theo bà lên núi,và trở
thành vùng của họ Đế.Cho nên việc ai là tổ-tiên Bách-Việt ta không cần biết đến,chúng ta chỉ cần biết điều chắc chắn là khi Lạc-long-Quân nhiếp chánh ông đặt ra luật triều chánh:"Con trưởng nam sẽ lên làm vua,được gọi là Hùng-Vương họ Hồng-Bàng,con trai gọi là "Quan-hùng" con gái gọi là "Mỵ nương",các quan văn-võ gọi chung là "Bố-chính" tướng văn
gọi là "Lạc-hầu",tướng võ gọi là "Lạc-tướng",phân đất thành 15 châu hạt để quản-trị,quốc-hiệu gọi Văn-Lang,đóng đô ở Phong-Châu.Từ luật hành chánh trên đây cho chúng ta thấy dân tộc ta là dòng dỏi Lạc-Việt.Ba chữ Lạc-long-Quân hàm chứa một ý nghĩa cao xa đó là "Minh-quân Rồng Lạc-Việt".Điều này cho chúng ta nói lên Lạc-long-Quân chính thực là rồng Việt-Nam,là Tổ-tiên của 18 vị vua Hùng-Vương mà ngày nay chúng ta chỉ gọi "TỔ HÙNG-VƯƠNG".
II-Tư-tưởng Việt-Nam.
Theo tập-tục chúng ta thường biết tư-tưởng Trung-Hoa về quan-niệm "Trung-Hiếu": "Tu-thân,tề-gia,trị-quốc,bình thiên-hạ" là nền tảng triết học để xây dựng quốc-gia,ổn định xã hội.Nhưng trên thực tế xã hội Trung-Hoa chinh chiến triền miên,dân tình khổ sở và càng thảm khóc khi có thiên tai,cái xã hội đó mới thay ngôi đổi chủ,rồi cứ tiếp tục như thế từ triều đại này đến triều đại khác,cũng bởi cái đạo đức "Trung Hiếu" sinh ra trong thời đất nước nhiều ly loạn bởi chiến tranh,thời Xuân thu (770tcn-403tcn) và Chiến quốc (403tcn-221tcn) trong thời Đông Chu (770tcn-221tcn),tư tưởng đó chỉ vá víu tạm thời cái loạn bất an của quần chúng,vì chính tư tưởng đó tạo thành sự chuyên chế độc tài từ gia đình rồi thành hệ thống cho một quốc gia,vua chúa sinh nhiều quyền thế rồi hà khắc đến người dân,khác với quan niệm "Trung Hiếu" của thời vua Nghiêu vua Thuấn và Chu-văn-Vương (Cơ-Xương),vua hiếu với dân như cha mẹ.dân trọng vua như bậc thánh hiền.
Trong cái xã hội chưa có văn hóa của buổi ban đầu lập quốc,ít người Việt nghĩ đến dân tộc ta cũng có một quan-điểm về tư-tưởng vượt qúa thời gian,đó là tư-tưởng nói về chữ "BÌNH",đúng ra ta phải nói là "Tam-bình".Trong xã hội ngày nay,nếu chúng ta đem phân tích "Tam Bình",chúng ta sẽ thấy : Đó là sự "Bình Đẳng" giữa tất cả mọi người,là nguồn căn của sự "Tư-Do và Dân-Chủ",từ đó thiên hạ mới có Thái-Bình,đó là quan điểm của thời Ngũ-Đế bên Trung-Hoa.Vào thời đó dân Việt ta chưa có văn-hóa,mọi việc được ghi lại bằng lối thắc-gút hoặc bằng hành động để mọi người đưọc rõ,chuyện bà Âu-Cơ dẩn 50 con lên núi,Lạc-long-Quân dẩn 50 con về vùng biển,cho dân thấy con vua cũng phải về sống cùng đời sống như dân,không phân biệt quan-dân sang-hèn,50 lên núi 50 xuống biển nói lên được chữ :Bình",trước khi phân chia như vậy Lạc-long-Quân nói với bà Âu-Cơ "Ta là giống rồng,nàng là giống tiên,thủy hỏa bất hòa,chung hộ thật khó",nên 2 người chia cách,mổi người dẩn 50 người con,để việc nước được yên ổn,điều này nói lên được chữ "Hòa" (6),những chuyện này đều thể hiện trước công chúng,là chuyện có thật,vậy chuyện Lạc-long-Quân và bà Âu-Cơ có 100 người con (Chu-văn-Vương cũng có 100 người con) là có thật,không phải là chuyện hoang đường,chuyện 100 người con này cũng nói lên nước Văn-Lang
cũng như Tây-Chu trị dân có khuôn phép vẩn trọng chữ Tín và Hiếu,"Tín" là tin tưởng lẩn nhau không gian-dối,"Hiếu" là chăm sóc lẩn nhau không phụ-bạc,nhưng tại Văn-Lang có thêm chữ "Bình",đó là quan điểm về "Tư-tưởng Việt-Nam".Chữ "Bình" nói rõ lên một tập thể bắt đầu bằng số 2,con số tuy là nhỏ nhưng là căn bàn của của sự công bằng,là nguyên tố của sự hòa hợp,là sức mạnh của sự bình yên trong sứ mạng để "Thiên hạ thái bình",khác ngược lại tư tưởng Trung-Hoa là "Bình thiên hạ" thì phải "Tu thân,tề gia,trị quốc",bắt nguồn từ "Cá nhân",do đó sinh ra "Đôc tài,chuyên chế".Quan niệm "Tam-Bình" của Lạc-long-Quân Sùng-Lãm mới thực là tư tưởng thời Ngũ Đế (Hoàng Đế, Chuyên-Húc,Đế Khốc,Nghiêu,Thuấn),nói rõ ra đây mới thực là đạo của "Đế Vương",nhưng trong sử để lại chỉ là hình ảnh của 100 người con nói lên Sùng-Lãm cũng có tài đức như Chu-văn-Vương và tài đức đó được thể hiện rõ rệt qua hình ảnh Chu-Công,sau 3 năm đông chinh dẹp yên nhóm phản loạn do Quản thúc,Thái thúc hợp cùng Vũ-Canh (Tống vương,con vua Trụ,Quản và Thái là em của Chu-võ-Vương,vì tranh dành quyền nhiếp chánh triều đình nên mới làm loạn),dẹp yên loạn Vũ-Canh,Chu-Công phân định quyền thế Tây Chu trở lại để thích ưng hoàng cảnh đương thời :Thứ nhất thực hiện chế độ phong kiến,đem đất phía đông phân chia cho công thần,thân thuộc giòng họ Cơ.Thứ hai kiến lập đông đô,Lạc-Ấp,ngày nay thuộc huyện Lạc-Dương tỉnh Hà-Nam,vẩn dùng vũ lực để áp chế vùng cai trị.Chu-Công chấp chánh được 7 năm,ổn định hoàn toàn Tây-Chu thì trao quyền lại cho Chu-thành-Vương (1115tcn-1079tcn),chúng ta thấy năm 1109tcn là năm thứ 6 của Công-Công vẩn còn phù trợ Chu-Thành-Vương chấp chánh triều đình,những việc làm của Chu-Công,sứ Việt-Thường Sùng-Lãm đều nhận rõ,và khi trở về nước làm vua,mới có chuyện 100 người con và 50 con theo mẹ về núi vùng Bách-Việt của giòng họ Đế,50 con theo cha về miền ven biển vùng châu thổ Bắc-Việt bây giờ,50 con theo Lạc-long-Quân sống chung cùng 15 bộ lạc là noi theo Chu-Công đưa thân tộc đến gần các vùng quản trị trong quan niềm "Tam Bình" để "An bang tế thế" không dùng vũ lực trị dân,tuy chỉ có 821 năm triều đại "Hùng Vương" nhưng được lòng dân,đây là đạo trị quốc của thời Ngũ Đế với luật "Không thành văn",khác với thời vua chúa sau này "Dĩ văn tải đạo","Dĩ văn truyền ngôn",xã hội càng sinh ra nhiều chuyện rắc rối,vì lời nói không thể nào diển tả hết ý của tư tưởng,nhưng tư tưởng đã viết thành văn,nên nhiều người chỉ dùng một vài câu trong văn rồi nói đó là tư tưởng của người viết rồi truyền đạt trong dân gian,từ đó sinh ra những thế lực "chuyên chính độc tài",như quan điểm:trung hiếu,tu thân tề gia,trị quốc,bình thiên hạ,là nhưng tư tưởng xây dựng cá nhân.Khác với quan điểm "Tam Bình" được xây dựng trên bình đẳng trong cộng đồng.Nói đến cộng đồng thì trong cuối thế kỷ 19,tư tưởng Karl-Marx ra đời,chúng ta thấy Karl-Marx chỉ vì muốn xóa bỏ đi chính quyền để người dân có tự do thật sự,nên dùng từ "Chuyên chính vô sản",từ này diển giải theo Lenin là "Người nghèo lên nắm chính quyền" nên mới sinh ra "Đảng cộng sản",nhưng trong từ "Chuyên chính vô sản" chúng ta cũng có thể giải thích là "Những người tham gia chính quyền phải nghèo",nói lên một người tham chính lúc đi vào chính quyền và khi rời khỏi chính quyền tài sản cá nhân không có sự thay đổi nhiều.Những sự kiện này có được cũng bởi những "Tư tưởng thành văn" là mối hại cho xã hội,nên Trang Tử (369tcn-?) đã nói hãy tìm những kẻ quên lời để cùng nhau đàm luận "Cái chân chính tư tưởng của triết gia",tư tưởng của Ông chỉ được viết lại bởi học trò của Ông,bởi thế chúng ta thấy sau thời Chu-Công,ổn định được "Chế độ phong kiến",xã hội chia 3 giai cấp:Thượng tầng gồm qúy tộc thân thích nhà vua,chư hầu,khanh tước và sĩ.Trung tầng gồm thứ dân,nông dân,công nhân và thương nhân.Hạ tầng gồm những tù binh,kẻ phạm pháp,nô lệ,thành phần này không có tự do ngay cả tánh mạng cũng không bảo đảm.Nhưng trong xã hội này thứ tự được phân chia rành mạch,đó là sự rõ ràng nói lên được chữ "Thanh" như chức quyền của Chu-Công có thể soán ngôi vua nhưng Ông không hề làm mà chỉ hoàn tất trách nhiệm của người phù trợ ấu chúa,trong sử Trung-Hoa không người nào làm được,cũng như việc làm của Ngũ Đế cũng không ai sánh bằng.Riêng Văn-Lang thời bấy giờ chỉ có Sùng-Lãm Lạc-long-Quân mới đạt đến mục đích của hàng Đế trong thiên hạ.Nên tôi nói Sùng-Lãm là "Rồng Việt-Nam LẠC-LONG-QUÂN".
Được-Lời (LKC) Ngày 12-7-2014
HÙNG-VƯƠNG DỰNG NƯỚC

Saturday, July 5, 2014

Người Việt nhìn qua sử Việt-Nam

Người Việt nhìn qua sử Việt-Nam

Lạc-long-Quân Sùng-Lãm
Hồng-Bàng vốn họ vua Hùng-Vương.

Người đứng đầu của nước Văn-Lang.
Mười tám đời yên như bàn thạch.
Sống an nhàn một cỏi phương Nam.
Lấy đạo nhơn-hòa xây dựng nước.
Không màng tranh chấp với lân bang
Trên dưới vua tôi vốn một lòng.
Thương nhau tựa như cùng cha mẹ.
Thanh-bình trong cảnh đời dân dã.
Hòa-bình trong cuộc sống chung nhau.
Thái-bình dân sống đời an lạc.
"Tam bình" chung lại sống thái-hòa.
Vua tự xem dân như cha mẹ.
Dân trọng vua như bậc thánh-hiền.
Chung lòng xây dựng nước Văn-Lang.
Phù trợ dương danh giống Lạc-Hồng.
Được-Lời(LKC)
Người Việt nhìn qua sử Việt.
Mấy ai nói đến lời chân thật.
"Người Việt" ra sao mới thực là.
Để lòng nhìn lại qúa khứ ta sẽ thấy "Người Việt tự dối mình" trên nhiều phương hiện,tự thấy nếu nói thẳng thừng thì sợ người ta gọi mình là ngang ngược và hồ đồ,vì đây là vấn đề nhạy cảm đối với mọi người cùng chung nói tiếng Việt,cùng chịu ảnh hưởng đến sông núi Việt-Nam,đó là "Chất Việt" sẳn có trong bản thân "Cần cù,nhẩn nại,thông minh và hòa bình",sự thật này không ai mà không nhận thấy,và cũng không thể chối cải được.Nhưng nói đến "Người Việt" người ta không nhận xét qua đời sống dân gian để phán đoán,mà chỉ nhìn cảnh xô bồ bôn chen trong cuộc sống thị thành,các hàng phẩm quan quyền và nhất là qua sử sách,rồi bình phẩm một cách qua loa trong cái "Tính lơ là" sẳn có,bởi thế mất đi nhiều cơ may chính mình tạo nên.
Nói đến sử sách thì phải xét qua các triều đại lập quốc.Nhìn chung "Người Việt" trông vẻ như hòa đồng và hiếu khách,trong lần gặp mặt đầu, sau khi giới thiệu qua tên họ và vài câu xã giao,thế nào cũng có câu tiếp "Anh là người..H..?",khi nghe qua giọng nói hoặc cái họ của người đối diện,rồi liền hỏi trong vẻ tự nhiên như là lời xã giao,đây là "tính lơ là" cuả "Người Việt",vì tôi được hỏi nhiều lần qua cấp chỉ huy hoặc những người bạn mới trong quân đội,không phải người Việt có tính kỳ thị mà vì tính tự hào về dân tộc bởi sự thông minh sẳn có trong con người,cho nên mọi việc đều dè dặt và cẩn thận trong các ngành chỉ huy,lãnh đạo,người Việt tin tưởng nhiều ở những người họ Lê,Trần,Nguyễn,qua sử người Việt vẩn còn dè dặt các họ như Đinh,Lý,Trịnh,Hồ,Bùi,Phạm và Ngô..."họ Ngô" đôi khi cũng còn nghi ngờ,sao tôi nói thế,vì vợ tôi bạn bè cũng thường hỏi "Chị là người Hoa?".Sao người mình lại có cái tính này,có phải vì ảnh hưởng quan niệm "ngàn năm nô lệ giặc Tàu",đây là một định kiến cố chấp của những "Người Việt trí thức",chứ sao không nhìn qua nước Malaisia (24/100 gốc Hoa,70/100 người bản xứ),Tân-gia-Ba (75/100 gốc Hoa,25/100 người bản và gốc Ấn),quốc gia phát triển mạnh,nước họ có theo chỉ thị của Trung-Quốc không?Trong khi đảng Cộng sản Việt-Nam,Hồ-chí-Minh,Phạm-văn-Đồng vì quyền lợi mà quên đi trách nhiệm quốc gia,không nghĩ đến dân tộc,luôn luôn nghĩ cách đề phòng người Hoa mà không thấy đây là "Cộng đồng chất Việt".Người Hoa đến Việt-Nam trong gần 300 năm nay,không chỉ riêng ở Việt-Nam mà cả toàn thế giới,họ là những người đi tỵ nạn vì chế độ hà khắc của Triều đinh Mãn-Thanh kỳ thị chủng tộc.Cũng như ngày nay người Việt chúng ta ở khắp 5 châu cũng vì Chế độ cộng sản,2 dân tộc Việt-Hoa khắp trên thế giới này đều là người tỵ nạn chính trị,đều là những người bị chính quyền ngược đãi,riêng về người Hoa họ muốn đào thải cái chính quyền chuyên chế độc tài từ trước đến nay,người Việt thì chỉ muốn đánh đổ chế độ cộng sản và oán ghét người Hoa,vì nghỉ rằng người Hoa chiếm lấy hoàn toàn nên kinh tế Việt-Nam,và cho đây là "Sự xâm lược đồng hóa dân tộc Việt-Nam".Đây là một quan niệm yếm thế hẹp hòi.Đến ngày nay đã gần 40 năm tỵ nạn chính trị tại các nước tự do mà người Việt không thấy rõ vấn đề khó xử cho những người Hoa đã sống từ 3 thế kỷ nay trên đất Việt,họ có cùng cái "Chất Việt" trong con người họ,họ có khi nào bạo lực với người Việt không ?
Thử nhìn lại lịch sử.Tổ tiên người Việt là Lạc-long-Quân Sùng-Lãm thể hiện rõ "Chất Việt (75/100 Việt + 25/100 Tàu)",và trong thời ngàn năm Bắc thuộc có vị anh hùng nào mang cái họ vừa kể ở trên đâu?Các Ngài đã lãnh đạo toàn dân,người cùng "Chất Việt",chống lại quân Tàu xâm lược áp đặt sự thống trị hà khắc lên dân tộc Việt.Như nhìn vào lịch sử,ta thấy thời kỳ độc lập của Việt-Nam bắt đầu từ Ngô-Quyền,nhưng khi nói đến các triều đại thì các thầy dạy sử thường mở đâu với câu: "Đinh,Lê,Lý,Trần,Lê,Nguyễn.."mà quên mất đi Ngô-Quyền và những người kề trước Ông như Khúc-thừa-Dụ (906-907),Dương-diên-Nghệ đã mở đường cuộc cách mạng chống Tàu hơn 30 năm liên tục,trước đó nữa có Lý-Bôn và thuộc tướng Triệu-quang-Phục không phải đã hơn 40 năm giữa nước Văn-Lang chống Tàu sao ?Họ có phải là người Việt thuần túy như các anh suy nghĩ đâu,họ chống vì áp bức của bọn quan lại cầm quyền.Với quan điểm này người Việt ngày nay cần phải biết,muốn xây dựng Việt-Nam,cần phải xây dựng một chính quyền chân chính trong sạch không tham nhũng,không nhận hối lộ,không lộng quyền hà khắc với nhân dân,những người tham gia chính quyền phải được minh bạch tài sản khi tham gia chính quyền cũng như rời khỏi chính quyền,như thế "Tự do và Độc lập" tự nhiên sẽ đến trên đất nước Việt-Nam.
Trong sử Việt nếu ta để ý ta sẽ thấy chỉ có Ngô-Quyền,Đinh-bộ-Linh,Trần-nhân-Tông,Lê-Lợi và gần thời chúng ta nhất là Ngô-đình-Diệm là được kính phục,vì những vị vua này trị quốc đúng cách một "Minh quân",còn các vị vua khác như Lê-Hoàn thời Tiền-Lê,Lý-công-Uẩn nhà Lý,Trần-Cảnh nhà Trần thì không được huy hoàng gì mấy,đặc biệt thời nhà Trần với cuộc thảm sát của Trần-thủ-Độ làm kinh hoàng cho cả giòng họ Lý,Nguyễn-Huệ sau khi đại phá quân Thanh thống nhất Việt-Nam,tự xưng Bắc-bình-Vương,chiếm đi vị trí nhà vua của anh mình là Nguyễn-Nhạc,và mưu tìm giết hại giòng họ Trịnh,Nguyễn Ánh sau khi thống nhất giang sơn thì câm thù Nguyễn-Huệ và truy lùng bà con thân thích giòng họ Hồ-Thơm,có phải những người có hành động này cho rằng : "Họ Lý,Hồ,Trịnh không phải là chính tông họ của người Việt-Nam",vậy họ của người Việt-Nam gồm những họ nào ? Chỉ riêng họ Lê,Trần,Nguyễn ư,hoặc những người phải hy sinh cho đất nước Việt-Nam mới là người Việt,nếu nghỉ thế thì qúa hẹp hòi và sẽ làm chậm tiến xây dựng đất nước và không trách nhiệm đối với dân tộc.
Trong thời Việt-Nam Cộng-Hòa,nhóm Dương-văn-Minh,Tôn-thất-Đính,Trần-thiện-Khiêm đã giết ngài Tổng Thống Ngô-đình-Diệm và cố vấn tổng thống Ngô-đình-Nhu,trong khi đó Ngô-đình-Diệm lại là cha đở đầu của Tôn-thất-ĐÍnh và Trần-thiện-Khiêm,lịch sử trớ trêu thế có sử nào ghi lại,tạo cho "Người Việt" trong cảnh mù mờ chỉ biết mình là "Anh hùng chống ngoại xâm" mà quên đi cái tính thuần lương của "Người Việt" trong thời Lạc-long-Quân.Những điều này đều bởi cái tính "Lơ là" của hầu hết người Việt.
Để nhận lại lịch sử rõ ràng hơn chúng ta bắt đầu:
Sử Việt-Nam.
Trong lịch-sử người Việt ai cũng biết họ Hồng-Bàng là họ của vua Hùng-Vương,chuyện đó không sai,giòng họ này bắt đầu từ thời nào?Đó là điều mà tất cả người Việt đều cần biết,theo quyển Việt-Nam sử-lược của ông Trần-trọng-Kim viết,vua Hùng-Vương bắt đầu từ thời con của Sùng-Lãm và Bà Âu-Cơ,theo sử ghi chép,vua truyền theo tục phụ đạo (lấy họ cha) trên thực tế là cha truyền con nối,nhưng sự thực không phải là họ Sùng mà là họ Đế của Bà Âu-Cơ,Lạc-long-Quân không muốn thấy tình trạng này tiếp diển trong tương lai,nên Ông đặt luật :"Người làm vua gọi là Hùng-Vương,mang họ Hồng-Bàng,truyền nhau được 18 đời,và tôi tạm gọi đây là luật Hồng-Bàng,vì đây bắt đầu thể chế cho nước Văn-Lang.
Sử chép vua Đế-Minh Nam du lấy nàng tiên sinh ra Lộc-Tục,sau Đế-Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế-Nghi làm vua phương Bắc,và Lộc-Tục làm vua phương Nam,từ điểm này ta nhận thấy,vua phương Bắc theo phụ-hệ,vua phương Nam theo mẩu-hệ,vì Đế-Nghi theo họ cha,Lộc-Tục theo họ mẹ,Lộc-Tục cưới vợ sinh con là Sùng-Lãm,họ Sùng là họ của mẹ,Sùng-Lãm cưới Âu-Cơ (con của Đế-Lai),vậy con của họ phải là họ Đế.Xét theo gia phả giòng họ Đế,chúng ta thấy Bà Âu-Cơ gọi Sùng-Lãm bằng chú.Xét theo mẩu-hệ phương Nam,Sùng-Lãm và Âu-Cơ khác họ nên việc lấy nhau là chuyện thường tình (cũng như ngày nay,hầu hết các nước Á-Châu như Việt Tàu Trung-Đông đều cho rằng anh em bạn dì (Theo phụ hệ vì đây là họ bên ngoại.Theo mẩu hệ thì Sùng-Lãm và Âu-Cơ thuộc về họ bên ngoại nên ưng nhau là chuyện bình thường,vì 2 người đều khác họ),bởi Trần-trọng-Kim nhìn Sùng-Lãm và Âu-Cơ theo quan niệm phụ-hệ của phương Bắc thì không hợp lý,nhìn theo mẫu hệ của phương Nam,hai người đều khác họ,mặc dù họ là cháu của Đế-Minh (Sùng-Lãm gọi Đế-Minh là "ông ngọai"theo mẩu hệ,còn Âu cơ gọi Đế-Minh là cố nội,theo phụ hệ),nên Trần-trọng-Kim hỏi đây có phạm đến luân thường đạo lý không?Chứng tỏ Trần-trọng-Kim chưa phân rõ tập tục giữa "phụ hệ và mẩu hệ".Vì thời đó dân Việt theo mẩu-hệ,con sinh ra đều mang họ mẹ,còn trong triều đình truyền ngôi vua chỉ truyền cho người nam,nếu cứ theo tập tục dân gian thì các triều đại sau luôn luôn đổi họ,bởi thế khi Sùng-Lãm lên ngôi vua,Ông mới có luật "Người làm vua gọi là Hùng-Vương mang họ Hồng-Bàng",nên mới có họ Hồng-Bàng bắt đầu từ thời vua Hùng-Vương thứ nhất và duy nhất để chỉ rỏ "Hồng-Bàng" là họ của nhà vua,có nghĩa là anh em cùng nhà vua cũng không được mang họ Hồng-Bàng mà vẩn phải mang họ mẹ,như vậy họ Hồng-Bàng chỉ có 18 vị vua Hùng-Vương được mang họ "Hồng-Bàng" mà thôi.
Đây là một quan điểm chính trị tuyệt đỉnh mà Lạc-long-Quân Sùng-Lãm đặt ra trong xã hội theo mẩu hệ,nhầm ổn định chế-độ quân chủ thời đó,ta có thể hảnh diện Sùng-Lãm là Ông Tổ của ngành "Luật Việt-Nam",những người trí thức Việt-Nam có nhìn thấy tư tưởng của Ông Tổ của mình không,mà lúc nào cũng tự ti mặc cảm mình cần phải học theo tư tưởng Trung-Hoa,có biết Lạc-long-Quân là một tư tưởng gia vĩ đại nhất không?Vì tính thuần lương của Sùng-Lãm,nên khi lên ngôi vua Ông chỉ lấy vương hiệu là Lạc-long-Quân,Ông không dùng đến từ "Đế hoặc Vương"như các thế lực triều khác,nên nước Văn-Lang có thời thịnh vượng,vì không có chiến tranh,dân gian sống thời thật thái bình,với quan điểm của thời vua Nghiêu vua Thuấn và Chu-văn-Vương (Cơ-Xương) cha của Chu-võ-Vương (Cơ-Phát),vua đầu tiên thời Tây Chu bên Tàu.
Trong thời Chu-thành-Vương,Sùng-Lãm có lần đi sứ qua Tây-Chu triều kiến Chu-Công (Chu-công-Đán,em của Chu-võ-Vương,thay cháu Chu-thành-Vương còn qúa nhỏ,nhiếp chánh triều đình),nên nhận biết tình hình Tây-Chu,Sùng-Lãm biết được "Chu-văn-Vương có 100 người con",nên khi về nước vào lúc thay vua cha Lộc-Tục Kinh-dương-Vương lên làm vua,Sùng-Lãm lấy vương hiệu là Lạc-long-Quân,cưới con gái Đế-Lai là Bà Âu-Cơ sinh ra một bộc trăm trứng nở ra 100 người con,đây như một chuyện cổ tích hoang đường không có thật,nhưng về mặt chính trị nhận xét,chúng ta thấy là chuyện có thật,vì 100 người con này gồm cả những người con nuôi,như chuyện vua Chu-văn-Vương bên Tây-Chu.
Như một thông điệp cho 15 bộ lạc nước Văn-Lang biết:"Lạc-long-Quân trị nước như Chu-văn-Vương,đây là một hình thức chính trị của Lạc-long-Quân,Ông không tuyên bố nhưng hành động của Ông cả nước Văn-Lang đều nhận rõ và tin rằng : "Đạo đức của Lạc-long-Quân chẳng khác gì Chu-văn-Vương".Đồng thời cũng trong luật Hồng-Bàng khiến Bà Âu-Cơ không vui,nên xẩy ra chuyện Bà Âu-Cơ dẩn 50 con lên núi (núi ở đây là núi vùng Bách-Việt,thuộc tỉnh Vân-Nam Quảng-Tây Quảng-Đông Trung-Hoa bây giờ) và Lạc-long-Quân dẩn 50 con xuống biển (biển ở đây là vùng Lạc-Việt,tức vùng châu thổ Bắc-Việt ngày nay) lập nước Văn-Lang.Điều này nói lên cho giòng họ Đế biết,nước Văn-Lang có một triều đại biệt lập không phụ thuộc vào Bắc phương.Đồng thời cũng để cho chúng ta thấy sự thông minh của Sùng-Lãm,Tổ của 18 vị Hùng-Vương,trị nước có phép tắc lấy chữ "Bình" làm căn bản cho cả dân tộc Việt (Sử chỉ đơn thuần ghi lại như chúng ta vừa đọc,nhưng vì tính "Lơ là" sẳn có trong người Việt nên tin 100 trứng nở 100 con là chuyện thật,mà không biết đây là sự dàn dựng của Sùng-Lãm,cũng như việc để Bà Âu-Cơ trở về vùng Bách-Việt là chuyện nhắc nhở con cháu sau này:"Phương Bắc hay dùng sách lược này để đồng hóa đất nước Việt-Nam",vì Lạc-long-Quân thấy rõ ý đồ của giòng họ Đế phương Bắc.Ngày nay chúng ta thấy rõ các lãnh đạo Cộng sãn Việt-Nam đương nằm trong kế hoạch "Mỹ nhân kế" của Trung-Quốc,rồi buộc phải ký những văn kiện bán đất bán biển cho Trung-Quốc).Nhưng người Việt không vượt khỏi sự thông minh của Lạc-long-Quân mà vẩn còn tù túng trong quan niệm về dân tộc,vì chưa nhận rõ dân tộc Việt thành hình từ đâu?Đây là sự thất bại của người Việt,chứ không phải là sự kiêu hùng của dân tộc,chung quy chỉ có sự khắc phục tạm thời để rồi chính tự dân tộc mình dày xéo lẩn nhau qua nhiều thế hệ,rồi tạo sự dễ dàng cho ngoại bang xâm lấn,sự thực này trí thức Việt-Nam có nhận ra không ?Bởi thế khi đọc qua sử tôi mạo mụi lên tiếng "Nước Văn-Lang lập quốc từ năm nhâm tuất 1079tcn đến năm qúy mão 258tcn (1079tcn-258tcn là 821 năm cho 18 đời vua Hùng-Vương,mổi Ông trị vị khoảng 45 năm) để phủ nhận quan niệm của ông Trần-trọng-Kim là năm nhâm tuất 2879tcn đến năm qúy mão 258tcn (2879tcn-258tcn là 2621 năm,mổi Ông trị vị 145 năm,qúa hoang đường),vì dựa vào quyển sử chính Trần-trọng-Kim viết :"Việt-Thường có 9 lần đến triều cống Chu-thành-Vương (1115tcn-1079tcn),điều này nói rõ thêm nước Văn-Lang lập quốc cùng thời Tây Chu bên Tàu.Quan niệm và tập tục Văn-Lang thời Lạc-long-Quân tựa như Chu-võ-Vương (con của Chu-văn-Vương),vị vua diệt vua Trụ nhà Thương chính thức lập lên Tây-Chu,vua coi dân như cha mẹ,dân trọng vua như bậc thánh hiền.Đời vua Hùng-Vương là triều đại lâu dài nhất của dân tộc Việt-Nam,trị quốc với quan niệm nhơn-hòa,thực hiện tam bình "Thanh-bình,Hòa bình và Thái-bình",khác với quan niệm thống trị của người Hán trong học thuyết "Trung hiếu" và "Tu thân,tề gia,trị quốc,bình thiên hạ"(vì trong gia đình thường bao che con cái,chính lý do này tạo cảnh cường hào ác bá,trong xã hội "Đạo trung hiếu" là đầu mối tạo nên những giai cấp chuyên chế,độc tài,bởi thế nước Trung-Quốc ngày nay vẩn là một đế quốc độc tôn trong thời buổi tôn trọng Tự-do,Dân-chủ,Dân-quyền ngày nay).
Sơ lược lịch-sử Việt-Nam.
Họ Hồng-Bàng (2879tcn-258tcn,theo sử ký Trần-trong-Kim).Đế-Minh cháu 3 đời vua Thần-nông đến núi Ngủ-Lĩnh (Hà-Nam) gặp tiên sinh con Lộc-Tục , Đế-Minh truyền ngôi cho con trưởng Đế-Nghi làm vua phương Bắc,và Lộc-Tục làm vua phương Nam,Lộc-Tục xưng là Kinh-dương-Vương lấy quốc hiệu là Xích-Qũy , nước Xích-Qũy bắc giáp hồ Động-Đình , nam giáp Hồ-Tồn (Chiêm-Thành),tây giáp Ba-Thục,nam giáp biển Nam-Hải,Kinh-dương-Vương là thủy tổ Bách-Việt, lấy con gái Động-đình-Quân là Long-Nữ sinh Sùng-Lãm.Sùng-Lãm lên ngôi xưng là Lạc-long-Quân.Lạc-long-Quân cưới con gái Đế-Lai tên là Âu-Cơ sinh ra một lần 100 đứa con , sau khi các con lớn lên,Lạc-long-Quân nói với Âu-Cơ"Ta là giống rồng nàng là giống tiên,thủy hỏa khắc nhau chung hợp thật khó", bèn từ biệt nhau , Âu Cơ dẩn 50 con lên núi,Lạc-long-quân dẩn 50 con xuống biển", lập lên nước Văn-Lang,gồm 15 bộ-lạc:
1-Giao-Chỉ (Hà-nội,Hưng-yên,Nam-định,Ninh-Bình).
2-Vũ-Ninh (Bắc-Ninh). 3-Phúc-Lộc (Sơn-Tây).
4-Việt-Thường (Quảng-Bình,Quảng-Trị).
5-Chu-Diên (Sơn-tây). 6-Ninh-Hải (Quảng-Yên).
7-Dương-Tuyền (Hải-Dương). 8-Lục-Hải (Lạng-Sơn).
9-Vũ-ĐỊnh (Thái-Nguyên,Cao-Bằng). 10-Bình-Văn ( ? ).
11-Cữu-Châu (Thanh-Hóa). 12-Cữu-Đức (Hà-Tỉnh).
13-Tân-Hưng (Hưng-Hóa,Tuyên-Quang).
14-Văn-Lang (Bạch-Hạt tỉnh Vỉnh-Yên).
15-Hoài-Hoan (Nghệ-An).
Vua đóng đô ở Phong-Châu,đặt luật lệ triều chánh,con trai gọi là "quan-hùng",con gái gọi là "mỵ-nương",tướng văn gọi là "lạc-hầu",tướng võ gọi là "lạc-tướng",truyền ngôi cho con trưởg lên làm vua gọi là Hùng Vương,truyền nhau được 18 đời vua đều gọi là Hùng-Vương.
Trong 18 đời vua Hùng-Vương có 2 sự tích được truyền tụng trong dân gian:
1-Thời Hùng-Vương thứ 6 có tích bé thần đồng ở làng Phù-Đổng cởi ngựa sắt đánh dẹp yên giặc Ân rồi bay về trời,dân làng ghi nhớ công lập miểu thờ Phù-Đổng-Thiên-Vương để tạ ơn ngài.
"Thời vua Trụ bên Tàu là nhà Thương còn gọi là Ân-Thương(1751 tcn-1111tcn) có thể giặc Ân là giặc của triều đại này,nhưng nếu tính từ năm 2879tcn đến năm 1751tcn có tất cả là 1128 năm chung cho 5 đời Hùng vương"vậy mổi đời trị vị 225 năm,hoang đường hơn con số 145 năm cho mổi vua Hùng-Vương được ghi lại như Ông Trần-trọng-Kim.
2-Thời Hùng-Vương thứ 18 có tích "Sơn-tinh thủy-tinh".Thủy tinh vì đem xính lễ đến trể nên không cưới được Mỵ-nương đem lòng thù hận,dùng phép thuật làm nước sông dâng lên,ý muốn làm ngập núi để đánh với Sơn-tinh,kỳ thực là thề quyết diệt Văn-Lang.Sau này chính Thục-Phán người Ba-Thục đánh bại vua Hùng-Vương 18,chấm dứt triều đại Văn-Lang.
An-dương-Vương(258tcn-207tcn).
Vua Thục xin cưới hỏi Mỵ nương không được bèn đem lòng thù hận vua Hùng-vương,quyết lòng trả thù Văn-Lang,đến đời sau Thục-Phán người Ba-Thục,khi lên ngôi đem quân đến đánh Văn-Lang,Hùng-Vương 18 thua nhảy xuống giếng tự tử,Thục-Phán lên ngôi xưng là An-dương-Vương,trị vị 50 năm đổi tên nước là Âu-Lạc,đóng đô tại Phong-Khê,bắt dân xây thành Cổ-Loa.Có Cao-Lổ chế được cái nỏ liểu bắn 1 phát ra 10 mũi tên,tạo thế quân rất mạnh,nhưng sau nhà vua bạc đải Cao-Lổ,Cao-Lổ bỏ vua,vã lại Mỵ-Châu (con An-dương-Vương) có tư thông cùng Trọng-Thủy (con Triệu-Đà) nhân đó phá hư nỏ thần,tạo thế để Triệu-Đà đem quân diệt Âu-Lạc rồi lập lên nhà Triệu.
Nhà Triệu.(207tcn-111tcn).
1-Triệu-Đà (207tcn-137tcn).Bên Tàu Tần-thủy-Hoàng năm thứ 26 thống nhất TQ (221tcn).Năm thứ 33 (214tcn),chiếm lấy Dương-Việt,dùng Nhâm-Ngao làm ký quận Nam-Hải,dùng Triệu-Đà làm lệnh quận Long-Xuyên,đến đời Tần-nhị-Đế (Hồ-Hợi) Nhâm-Ngao mất,Triệu-Đà lên thay.Sau khi nhà Tần (Tử-Anh) bị Tây-Hán diệt (206tcn),Triêu-Đà chiếm Quế-Lâm và Tượng-Quận,năm 207tcn Triệu-Đà tự xưng Nam-việt-Vương.Năm 206tcn Lưu-Bang diệt Tần,thống nhất Trung-Hoa xưng Hán-cao-Tổ(206tcn-195tcn),mãi đến năm 196tcn Lưu-Bang sai Lục-Gỉa sắc phong Triệu-Đà làm Nam-Việt-Vương.Đến năm mậu-ngọ 183tcn,Võ hậu cầm quyền Hán triều,cho người đến khuyên dụ lần nữa,Triệu-Đà mới chịu thần phục nhà Hán,Ông mất năm 137tcn,tương truyền ông sống 122 tuổi,truyền ngôi cháu đích tôn tên Hồ.
2-Triệu-văn-Vương(137tcn-125tcn).Tên Hồ cháu Triệu-Đà lên ngôi được 2 năm,vua Mân-Việt (Phúc-Kiến) đem quân sang đánh,Triệu-văn-Vương cầu viện nhà Tây-Hán,Hán-vũ-Đế (140tcn- 86tcn) sai Vương-Khôi và Hàn-an-Quốc sang đánh và giết vua Mân-Việt,còn sai Trương-Trợ dụ về chầu Hán đế bên Tàu,vua cho thái tử Anh-Tề đi thay,Anh-Tề sống tại Hán triều 10 năm,đến năm 125tcn Triệu-văn-Vương mất,làm vua được 12 năm.
3-Triệu-minh-Vương(124tcn-113tcn).Tên là Anh-Tề vợ là Cù-Thị có con là Hưng,trở về làm vua xưng Triệu-minh-Vương,phong Cù-Thị làm hoàng hậu,Hưng làm thái tử,làm vua được 11 năm.
4-Triệu-ai-Vương(113tcn-112tcn).Tên là Hưng làm vua được 1 năm,thái hậu Cù-Thị đã tư thông với An-quốc thiếu qúy trước khi lấy Anh-Tề,khuyên Triệu-ai-vương nên triều cống nhà Hán và qua Tàu chầu vua Hán,thừa tướng Lữ-Gia can giáng vua không nghe lời mà còn nghe theo thái hậu Cù-Thị lập mưu giết Lữ-Gia.Lữ-Gia biết được làm loạn,Hán-vũ-Đế (140tcn-86tcn) bên Tàu sai Hàn-thiên-Thu đem 2.000 quân sang đánh Lữ-Gia,Lữ-Gia cùng em trai và dân chúng giết Cù-Thị và vua (tức Hưng con riêng Cù-Thị và An-quốc thiếu qúy) cùng sứ gỉa Tàu,lập con trưởng Triệu-minh-Vương là Vệ-dương-Hầu lên ngôi vua.
5-Triệu-dương-Vương(112tcn-111tcn).Tên Kiến-Đức (con của Triệu-minh-Vương và vợ là người Nam-Việt) cũng gọi Triệu-vệ-Vương làm vua được 1 năm,Hán-vũ-Đế sai Phục-ba tướng quân là Lộ-bác-Đức lãnh bộ binh và Dương-Bộc lãnh thủy binh đem 5 đạo quân đánh chiếm Nam-Việt và đặt là Giao-Chỉ bộ chia làm 9 quận,đặt quan cai trị như các châu huyện bên Tàu.Trong sách sử Trung-Hoa Dân-Quốc (QDĐ/TH) ghi:"Nước Nam-Việt gồm Quảng-Đông,Quảng-Tây và Bắc phần Việt-Nam bây giờ".Hán-vũ-Đế bình định Nam-Việt,áp chế sách lược cai trị hà khắc,nên dân tình ở đây không ổn định.(Khi ta đọc đến Bà Triệu-thị-Trinh khởi dậy đánh quân Đông-Ngô,Bà nói với anh:"Tôi muốn cởi gió đáp đường sóng biển,chém cá tràng kình ở Biển Đông",điều này cho thấy từ thời Hán-vũ-Đế (Tây Hán) đến hết đời Đông-Hán bị diệt bởi Tào-Phi nhà Ngụy năm 220,nhà Hán vẩn chưa ổn định vùng đất Nam-Việt (Quảng-Đông,Quảng-Tây,Bắc phần Việt-Nam).Cớ gì Trung-Quốc ngày nay lại nói :"Biển Đông-Nam thuộc về Trung-Quốc từ thời Hán-vũ-Đế ? Lời nói của Bà Triệu thị-Trinh năm 248 cho chúng ta thấy :"Lãnh thổ Nam-Việt bắc liền cả vùng Đông-Nam-Á,là vùng biển tự do đi lại của dân tộc Việt-Nam,và ranh giới nhà Hán chưa qua khỏi Quảng-Đông,Quảng-Tây).
Từ đây dân tộc Việt bước vào thời kỳ nô lệ trên ngàn năm.
Thời kỳ Bắc thuộc.
A- Bắc thuộc lần thứ I.(111tcn-40cn).
Cuộc khởi nghĩa Trưng-Trắc Trưng-Nhị(40cn-43cn).
Trong thời Bắc thuộc,các quan lại đều là người Tàu,dân Việt chỉ làm nô lệ,sau khi Hán-vũ-Đế mất (140tcn-86tcn),kế đến Hán-chiêu-Đế,Hán-tuyên-Đế,thế lực Tây-Hán suy yếu dần,triều chánh đều nằm trong tay anh em Vương thái hậu,quyền hành đều nằm trong tay người cháu Vương-Mảng,Vương-Mảng xoán ngôi diệt Tây-Hán,đổi quốc hiệu là Tân,thường gọi là Tân-Mảng (8cn-25cn).Tôn thất nhà Hán,Lưu-Tú,dẹp yên Vương-Mảng,lập lên Đông-Hán đóng đô ở Lạc-Dương (Tây-Hán đóng đô ở Trường-An),Lưu-Tú lên ngôi,Đông-Hán Quang-vũ-Đế (25cn-58cn),tại VN Tô-Định làm thái thú tàn ác hung bạo giết Thi-Sách,chồng Trưng-Trắc,người huyện Châu-Điền con quan Lạc tướng.Trưng-Trắc cùng em Trưng-Nhị người Mê-Linh làng Hạ-Lôi huyện Yên-Lãng tỉnh Phúc-Yên,con gái quan Lạc-tướng (võ tướng thời Hùng-Vương),nổi lên ở Phong-Châu đánh giết Tô-Định,các dân ở Cửu-Chân và Nhật-Nam hưởng ứng cùng khởi nghĩa chiếm được 65 thành ở ngòai phía Nam nhà Đông-Hán,xưng vương năm 39cn đóng đô ở Mê-Linh.Năm 40cn Hán triều sai Mã-Viên đến đánh,năm 42cn Mã-Viện tiến đánh Lãng-Bạc 2 Bà thế cô cầm cự không nổi bèn rút về Cẩm-Khê,năm 43cn Hai Bà cùng tuẩn-tiết tại Hát-Giang.
HAI BÀ TRƯNG
Ngược dòng lịch-sử của bốn ba.
Hai bà Trưng đứng lên khởi nghĩa.
Từ Phong-châu dựng cờ cứu nước.
Cửu-chân Nhật-nam cũng một lòng.
Giết Tô-Định trả mối thù chồng.
Giúp dân tình dựng lại quốc-gia.
Lấy Mê-linh làm nơi dựng nước.
Tự xưng mình vua nước Việt-nam.


Với khí thế dân tình lúc đó.
Sáu mươi lăm thành Bà chiếm được.
Bên Đông-Hán tỏ ra lo lắng.
Sai Mã-Viện thống lãnh ba quân.
Vi thế côi khó phương chống cự.
Nên rút về cố thủ Cẩm-Khê.
Rồi chạy đến Hạt-Môn cầm cự.
Sau cùng tuẩn-tiết tại Hát-Giang.

Tưởng công Bà dân ta ghi nhớ.
Hằng năm ngày sáu tháng hai âm.
Lễ tưởng niệm trang nhả linh đình.
Để tỏ ơn một lòng kính mếm.
Cũng nói lên tấm lòng yêu nước.
Giới nữ nhi khí phách hùng anh.
Truyền đến đời sau con cháu rõ.
Việt-Nam ta có nữ anh tài.
Được-Lời (LKC)
B-Bắc thuộc lần thứ II.(43cn-588cn)
1-Nhà Đông-Hán.(25cn-220cn).Sau cuộc khởi nghĩa của 2 Bà Trưng,Giao-Châu trở lại thời nô lệ như xưa,quan lại cai trị tàn ác và bạc đãi người bản xứ,mãi đến cuối thời Hán-linh-Đế(168-189) mới có Lý-Tiến lên làm thứ sử ở Giao-Chỉ xin vua Đông-Hán cho người bản xứ làm quan như người Hán,vua Hán đồng ý cho làm quan tại bản xứ mà thôi,sau lại có Lý-Cẩm làm lính tục-vệ hầu vua ở trong điện xin vua Hán cho người Giao-Chỉ làm quan như dân Hán,từ đây người Việt được dự vào các chức quan lại trong nguồn máy cai trị của Đông-Hán.
Sĩ-Nhiếp(187-226) là quan thái-thú ở Giao-Chỉ từ năm 187,lúc này ở Giao-Chỉ loạn lạc khắp nơi,dân tình không yên,Sĩ-Nhiếp bình định được giặc ngoài,bên trong trị dân có phép và chăm sự dạy bảo dân lành,Sĩ-Nhiếp cùng các anh em của ông chia nhau mà cai trị các châu khác,thời thế thật sự thái-bình,lòng dân cảm phục,bởi thế trong sử có ghi:"Việt-Nam có văn hóa bắt đầu từ thời Sĩ-Nhiếp".Trong giai đoạn này,thời Hán-linh-Đế giặt "Khăng vàng" nổi lên,loạn lạc khắp nơi,sau khi Hán-linh-Đế chết,Đổng-Trác lộng quyền nắm giữ binh quyền trong tay,tự lập lên Hiến-Đế và chuyên chế triều chánh,sau này Đổng-Trác bị giết,Tào-Tháo lên thay,đem Hiến-Đế chuyển về Hứa-Huyện,rồi sau đó Hiến-Đế bị Tào-Phi (con Tào-Tháo giết rồi tự xưng vương,đổi quốc hiệu là Ngụy-Quốc.Đông-Hán bị diệt năm 220cn.Từ đây bên Tàu thế lực phân chia:Bắc thuộc họ Tào gọi là Bắc- Ngụy,đông có Tôn-Quyền thuộc Đông-Ngô,cai quản dọc theo các tỉnh ven biển,tây có Tây-Thục thuộc giòng họ Lưu-Bị.
Năm 226 (năm thừ 5 Tôn-Quyền làm vua Đông-Ngô) Sĩ-Nhiếp mất,con ông là Sĩ-Huy tự phong làm thái thú,sau Đông-Ngô đến cai trị đưa Lục-Dần làm thái thú Giao-Châu thay Sĩ-Huy.
2-Đời Tam-quốc.(220cn-265cn).Tôn-Quyền nước Đông-Ngô thống trị nước ta,dân tình khổ sở.Năm 248 sai Lục-Dần làm thứ sử Giao-Châu,có bà Triệu thị-Trinh người huyện Nông-Cống ở cùng với anh là Triệu-quốc-Đạt,trong nhà chị dâu độc ác ngòai thì quân Tàu hung dữ hà hiếp dân lành,bà tức giận giết chị dâu vào rừng tụ hợp nghĩa quân hơn ngàn người,lúc đó Bà chỉ 20 tuổi,bà khuyên anh cùng nổi dậy chốngTàu,người anh lại khuyên Bà không nên làm vậy,Bà có nói"Tôi muốn cởi gió đạp đường sóng dữ,chém cá tràng kình ở biển Đông,chứ không bắt chước người đời cúi đầu còng lưng làm tì thiếp người ta".Năm 248 người dân không chịu được sự hung ác của quân Đông Ngô,nên Triệu-quốc-Đạt mới nổi dây chống Đông Ngô,Triệu-thị-Trinh bèn đem quân ra giúp anh mình,lúc này quân dân tôn bà làm Nhụy-kiều tướng-quân,bà làm chủ soái thống lãnh ba quân đánh với quân Tàu hơn 6 tháng,ví thế cô bà bị vây ở xã Bồ-Điền,và tự tử chết tại đây.Về sau Nam-Đế nhà Tiền Lý khen Bà là người trung nghĩa sai lập miếu thờ tại xã Phú-Điền huyện Mỹ-Hóa tỉnh Thanh-Hóa ngày nay.
Qua 2 cuộc khởi nghĩa của 2 Bà Trưng và Bà Triệu,cho chúng ta thấy trong dân gian kính trọng người phụ nữ như thế nào,lúc nào cũng tôn lên làm soái tướng hoặc là vua,vì xã hội trong thời này vẩn còn duy trì phong tục "mẩu hệ",lòng người kính trọng người phụ nữ hơn.
3-Nhà Tấn.(265cn-420cn).Sau khi bình định được thế Tam quốc (Lưu-Bị,Tôn-Quyền và Tào-Tháo,Tư-mã-Chiêu,con Tư-mã-Ý,lên làm vua lập lên nhà Tấn).Trong thời kỳ nay vì bên Tàu loạn lạc tình hình nhà Tấn không được ổn định giặc gỉa khắp nơi,bởi thế ở Giao-Châu tùy vào các quan thái thú,đời sống dân gian vẩn bị hà hiếp khổ cực.
Thời đó nước Lâm-Ấp (Chiêm-Thành) thường hay quáy nhiểu Giao-Châu,quan quyền chỉ lo việc chống ngoại xâm,năm 420 Đổ-tuệ-Đô cử binh bình định Lâm-Ấp,nhưng đối với dân Giao-Chỉ sự cai trị của nhà Tấn cũng như các thời Đông-Hán Đông-Ngô,quan lại tham ô hà hiếp dân lành,dân tình khổ sở loạn lạc khắp nơi.Lúc này bên Tàu được phân quyền cai trị bởi Nam-Bắc Triều.
4-Nam Bắc Triều.(420cn-588cn).Nhà Tấn thua,Nam-Bắc triều thay thế,năm 433 vua Lâm-Ấp Phạm-dương-Mại viện lý do đem lễ vật sang tấn cống nhà Tống và xin cai trị Giao-Châu,vua Tống không bằng lòng,bởì vậy quân Chiêm-Thành thường đem quân sang cướp phá quáy nhiễu Giao-Châu.Năm 479 nhà Tống mất,nhà Tề kế nghiệp trị vị được 22 năm thì nhà Lương lên thay,nhà Lương sai Tiêu-Tự làm thứ sử Giao-Châu,Tiêu-Tự tàn ác hung bạo khiến đời dân khổ sở,thời này có ông Lý-Bôn (Lý-Bí) thấy bất bình nổi lên đánh nhà Lương.
*Lý-nam-Đế (544-548).Lý-Bôn người Tàu sống ở Giao-Châu 7 đời nổi lên diệt Tiêu-Tự,lãnh đạo dân quân địa phương chống lại nhà Lương,chỉnh sang mọi việc,tính cơ nghiệp lâu dài,năm 543 Lâm-Ấp sang cướp phá,ông sai Phạm-Tu vào đánh tại Cữu-Đức (Hà-Tỉnh),quân Lâm-Ấp thua chạy.Năm 544 ông tự xưng là Nam-Việt-Đế lấy quốc hiệu là Vạn Xuân.Năm 545 nhà Lương đem quân sang đánh,Lý-Bôn bỏ chạy về đất Phong-Châu (Vĩnh-Yên),cầm cự hơn 1 năm ông trao binh quyền cho tả tướng quân Triệu-quang-Phục,ông trở về Khuất-Liêu ở mãi đến năm 548 ông mất.
*Triệu-Việt-Vương (548-557).Triệu-quang-Phục được tin Lý-Bôn mất,lúc này bên Tàu nhà Lương đang loạn,Triệu-quang-Phục thừa thế đánh đuổi quân Lương chiếm thành Long-Biên,tự xưng Triệu-Việt Vương,còn anh của Lý-Bôn là Lý-thiên-Bảo và người bạn cùng họ Lý-phật-Tử bị quân Lương đánh bại chạy sang đất Lào đóng ở động Dã-Năng xưng là Đào-lang-Vương lấy quốc hiệu là Dã-Năng.
Nhận định :
Tình cảnh này tựa như Hồ-chí-Minh sống tại hang Pác-Bó ở Lào,nước có loạn thì chạy ra nước ngoài chiêu tập cần vương,Như vua Bảo-Đại,tình hình 1954 không yên thì Bảo-Đại chạy qua Pháp để điều hành Quốc-Gia Việt-Nam.Như Tổng Thống Nguyễn-Văn-Thiệu,Miền-Nam chưa mất thì rời bỏ Việt-Nam chạy ra nước ngoài lánh nạn,chẳng khác gì tên lính đào ngũ,riêng Ông Thiệu tôi đã trình bày,Ông là người đâm sau lưng chiến sĩ VNCH,là tên Việt cộng nằm vùng,Ông có ý định tiêu diệt SĐ-22BB và SĐ-23BB trong lần rút quân khỏi Tây-Nguyên và mưu toan giết Tướng Ngô-quang-Trưởng trong lần rút quân QĐI khỏi Vùng I Chiến thuật cuối tháng 3/1975,Ông tự điều động QĐIII thay thế bởi nhân sự QĐII mới thua trận từ Vùng II Chiến thuật trở về để dàn xếp một cuộc ám sát Tướng Tướng Nguyễn-văn-Hiếu,Tư lệnh phó QĐIII,mở đường cho Việt cộng tấn công vào Sài-Gòn,đồng thời gây hoang man cho Vùng III và Vùng IV Chiến thuật bởi sự giải tán Chính phủ Trần-thiện-Khiệm trong đầu tháng 4/1975,và sự ra đi của Thiệu-Khiên-Quang trong ngày 25/4/1975 là một báo hiệu cho nhân dân Miền Nam Việt-Nam rối loạn,làm điều kiện tốt để Việt cộng tấn công.Các ngài HCM,Bảo-Đại,Thiệu là họ người Hoa ư.
Năm 555cn (năm thứ 7 Triệu-việt-Vương) Lý-thiên-Bảo mất,không có con binh quyền về tay Lý-phật-Tử.
*Hậu-Lý-nam-Đế.(571-602).Sau 2 năm Lý-thiên-Bảo mất.Năm 557 Lý-phật-Tử đem binh đánh Triệu-việt-Vương,đánh nhau mấy trận không phân thắng bại Lý-phật-Tử cầu hòa,Triệu-quang-Phục nghỉ tình họ Lý nên chịu hòa thuận lấy Bãi Quân-Thần( làng Thượng-Các huyện Từ-Liêu) làm giới hạn,còn gả con gái cho Lý-phật-Tử để thông gia với nhau,(Trong giai đoạn từ năm 557 đến năm 571,dân Việt chịu bởi 2 thế lực,Triệu-quang-Phục và Lý-phật-Tử,nhưng dân vẩn sống trong hòa-bình).Năm 571 Lý-phật-Tử thình lình đem quân đánh Triệu-việt-Vương,Triệu-quang-Phục thua chạy đến sông Đại-Nha (Nam-Định) tự tử,sau này dân kính mến lập đền thờ Ông Triệu-quang-Phục ở Đại-Bồ huyện Đại-An để nhớ ơn.
Lý-phật-Tử xưng vương,người đời gọi là Hậu Lý-nam-Đế (571-602) đóng đô ở Phong-Châu,sai Lý-đại-Nguyên giữ Long-Biên,sai Lý-phố-Đỉnh giữ Ô-Diên.Năm 602 bên Tàu nhà Tùy bình định Nam-Bắc triều xong,đem quân qua đánh Nam-Việt,Lý-phật-Tử xin hàng và chịu thần phục như xưa.Từ đây,Giao-Châu thêm 336 năm đô hộ của phương Bắc.
Nhận-định.

*Như ta nhận thấy từ đời vua Hùng-Vương (1079tcn-258tcn) 821 năm,cuộc sống dân gian theo mẩu-hệ,rồi từ thời An-dương-Vương đến giòng họ Triệu-Đà(257tcn-111tcn) 146 năm theo phụ-hệ,như vậy người Việt thật sự theo hệ nào trong đời sống dân-gian?Đọc qua 2 thời kỳ Bắc thuộc đầu tiên ta thấy,lần thứ I Bắc thuộc người lãnh đạo đánh Tàu là 2 Bà-Trưng (40-43),lần thứ II Bắc thuộc là bà Triệu-thi-Trinh mà ta quen gọi là Bà-Triệu đem binh ra giúp anh là Triệu-quốc-Đạt lại được toàn quân tôn làm"Nhụy-Kiều tướng-quân"thống lãnh toàn quân đánh Tàu,điều đó cho ta thấy,thời đó (248) uy quyền của phụ nữ rất cao trong xã-hội như trong gia-đình Triệu-quốc-Đạt có vợ hung tàn độc ác khiến Bà Triệu tức giận giết chị dâu rồi vào rừng mộ binh đánh Tàu,sự kiện này đủ nói lên trong đời sống dân gian người Việt thời này vẩn theo mẩu hệ.Vậy ta nên đặt câu hỏi trong thời Thục-Phán và Triệu-Đà có thực là người Việt không ?Vì 2 triều đại này vẩn theo phụ hệ khác với đời sống của dân Lạc-Việt.

*Trong thời Tiền Lý (544-602) tính ra ta có 58 năm độc lập,nhưng vì sự tranh quyền của 2 tên bất tài Lý-thiên-Bảo và Lý-phật-Tử (giặc đến đánh thì chạy,khi đất nước yên thì về dùng thủ đoạn tranh quyền),cuối cùng Lý-phật-Tử phải xin hàng nhà Tùy để được an nhàn khi quân Tùy đem binh sang đánh Nam-Việt,những người như Lý-thiên-Bảo và Lý-phật-Tử trong thời nào cũng có,làm sao ngăn chận được bọn này,lúc đó nước Việt-Nam mới tránh được chiến tranh,dân mới thật sự có thái bình.
-C-Bắc thuộc lần thứ III.(603cn939cn).
1-Nhà Tùy(589-617).Vua Tùy bìết được nước Lâm-ẤP có nhiều vàng bạc,nên năm 605 vua Tùy sai Lưu-Phương sang đánh,Lưu-Phương bày mưu thắng đoàn quân hùng hậu có nhiều voi rừng của vua Lâm-Ấp Phạm-phạm-Chí tại sông Đồ-Lê,Lưu-Phương thắng trận và được nhiều vàng bạc châu báo nhưng cuối cùng Lưu-Phương cũng bị bạo bệnh mà chết trên đường rút binh về nước.
2-Nhà Đường(618-907).
Nhà Tùy bị diệt,Lý-Nguyên thống nhất Trung-hoa lập lên nhà Đường,năm 621 sai Khâu-Hòa làm tổng quản cai trị Giao-Châu,chia nước ta thành 12 châu để cai trị,luật lệ khắc khe và nghiêm ngặt hơn các triều đại trước,bởi thế đời dân rất khổ cực vả lại giặc cướp nổi lên khắp nơi từ Lâm-Ấp,Hoài-Vương(1) Nam-Chiếu(2) giặc bể(3) thường đem binh tới giết hai dân Việt,đời dân càng khổ thêm,cho nên dân ta thường bị các quan lại Tàu bắt làm nô lệ trong các đoàn quân đi dẹp loạn.Từ năm 864 nước Nam-Chiếu thường qua Giao-Châu cướp phá,quan lại địa phương không ngăn chận được,bắt đầu năm 860 Nam-Chiếu đưa quân qua chiếm đất,nhà Đường có cho quân qua đánh nhưng khó thắng được quân Nam-Chiếu,mãi đến năm 865 nhà Đường cử Cao-Biền sang làm tiết-độ-sứ và thống lãnh toàn quân,mới đánh lui quân Nam-Chiếu (866) ra khỏi Giao-Châu.Cao-Biền là tướng tài nhà Đường làm tiết-độ-sứ An-Nam,ông giỏi về quân sự,có tài văn chương,tinh thông địa lý,ông chỉnh đốn mọi việc ở Tinh-Hải (sau khi hàng phục được Nam-Chiếu nhà Đường đổi An-Nam là Tinh-Hải),sửa đổi thuế khóa xây đồn đấp lũy ở biên thùy,khai phá ghềnh thác chỉnh trang thủy lợi,xây thành Đại-La ở bờ sông Tô-Lịch,trị dân có phép,người dân rất kính nể,thường gọi ông là Cao-Vương,năm 875 ông được triệu hồi về làm tiết-độ-sứ ở Tây-Xuyên và cháu của ông là Cao-Tần làm tiết-độ-sứ Tinh-Hải.
Chú thích:

*(1) Lâm-Ấp và Hoài-Vương là nước Chiêm-Thành sau này,thời Tùy Phạm-phạm-Chi là vua Lâm-Ấp,đến đời nhà Đường vua Lâm-Ấp là Phạm-đầu-Lê,Phạm-đầu-Lê mất,con là Phạm-trấn-Lang lên thay cũng bị giết,dân trong nước lập con của bà cô (Phạm-trấn-Lang có mẹ là họ Chư,nên em của mẹ thuộc giòng bên nội nên gọi là cô,đây là tập tục theo mẩu hệ,cho nên nguyên nhân Phạm-trấn-Lang bị gìết do bởi thế lực muốn giòng họ Chư lên nắm quyền triều chánh) là Chư-cát-Địa lên làm vua,đổi quốc hiệu là Hoài-Vương quốc,nước Hoài-Vương đánh chiếm Châu-Hoan và Châu-Ai,năm 808 quân Đường đánh quân Hoài-Vương lui về giữ phía nam Quảng-nam Quảng-Ngãi bây giờ,từ đây đổi là Chiêm-Thành.Trong phần này ta thấy,con của em gái vợ Phạm-đầu-Lê là Chư-cát-Đạt,có nghĩa là mẹ và cô của Phạm-trấn-Lang là họ Chư,(vì trong xã hội mẩu hệ Chiêm-Thành,người làm vua vẩn mang họ cha),vì thế khi bà cô Phạm-trấn-Lang lên tiếng đưa con là Chư-cát-Địa lên làm vua thần dân đều ủng hộ và đổi quốc hiệu là nước Hoài-Vương.Điều này Lạc-long-Quân Sùng-Lãm đã thấy rỏ ngay từ đầu cái họa xã-hội mẩu-hệ khi người làm vua vẩn mang họ cha,nên đặt họ Hồng-Bàng chỉ dành riêng vua Hùng-Vương mà thôi,821 năm cho một giòng họ làm vua mà đất nước không loạn lạc,chỉ duy nhất họ Hồng-Bàng nước Văn-Lang,là một Triều đại dài nhất trong các triều đại ở vùng Đông-Á này.

*(2)Nam-Chiếu:Các tộc Thái ở phía Bắc Việt-Nam và Tây-bắc tỉnh Vân-Nam Tàu gồm có 6 chiếu,chiếu có nghĩa là vua,Mông-Huề,Việt Thác,Lãng-Khung,Đằng-Đan,Thi-Lãng,và Mông-Xá,Mông-Xá ở về phía nam nên gọi là Nam-Chiếu,Nam-Chiếu thế rất mạnh chinh phục 5 chiếu khác và xin hàng phục nhà Đường,Nam-Chiếu thường đem binh đi đánh Phổ-Thồn (Tây-Tạng) và Giao-Châu.Sau này đổi tên là nước Đại-Lý.

*(3) Giặc biển là nhóm người từ ngoài đảo Côn-lôn và đảo Đồ-Bà thường vào Giao-Châu đánh cướp dân làng.
*Mai-hắc-Đế.(722)
Năm 722 ở Hoan-Châu (Nghệ-An) có Mai-thúc-Loan nổi lên chống cự quan lại địa phương,chiếm được thành,xây thành đắp lũy,xưng là Mai-hắc-Đế hợp với Lâm-Ấp và Chân-Lạp làm ngọai viện chống lại quân Đường.Vua Đường sai Dương-tư-Húc và Quang-sở-Khách sang đánh,vì thế cô nên bị thua mà chết,dân làng nhớ công ngài lập miếu thờ ở xã Hương-Lãm huyện Nam-Đường tỉnh Nghệ-An.
*Bố-Cái Đại-vương.(791).
Năm 791 ở quận Đường-Lâm(Sơn-Tây) có quan đô hộ nhà Đường Cao-chính-Bình tàn ác dân lành,bắt dân sưu cao thuế nặng lòng dân oán hận,ông Phùng-Hưng nổi lên đánh bại Cao-chính-Bình và chiếm được thành trì,chỉ vài tháng sau ông bị bịnh mà chết,con là Phùng-An lên nối nghiệp cha.Tháng 7 cùng năm,nhà Đường cử binh sang đánh và dẹp yên.Dân gian tưởng nhớ công Phùng-Hưng lập miểu thờ cúng gọi ông là Bố-Cái-Đại-Vương.(bố nghĩa là cha,cái nghĩa là mẹ).
3-Đời Ngũ-Qúy(907-959).
Nhà Đường mất,bên Tàu chia ra Hậu-Lương,Hậu-Đường,Hậu-Tấn,Hậu-Hán,Hậu-Chu gọi là Ngũ-Qúy hay Ngũ-Đại,trong lúc này ở Giao-Châu họ Khúc dấy nghiệp.
*Khúc-thừa-Dụ(906-907).
Cuối đời Đường (906) các quan huyện vùng Giao-Châu làm loạn,dân gian bất an,dân bèn đề cử Khúc-thừa-Dụ làm tiết độ sứ,ông là người phú hộ biết lo và giúp đở dân lành,vua nhà Đường cùng thuận phong ông làm Đồng binh chương sư.Năm 907 nhà Đường mất nhà Lương lên thay,phong Lưu-Ấn làm Nam-bình-Vương kiêm tiết độ sứ Quảng-Châu và Tinh-Hải để cai trị Giao-Châu,Lưu-Ấn đóng phủ ở Phiên-Ngung,trong năm này Khúc-thừa-Dụ bị bệnh mất.
*Khúc-Hạo(907-917).
Năm 907 Khúc-thừa-Dụ mất con là Khúc-Hạo lên thay,chỉnh đốn mọi việc và chỉnh sang việc thuế,cho con sang Quảng-Châu làm thông hiếu nhưng cốt để thăm dò tình hình.Lưu-Ấn ở Phiên-Ngung được 4 năm thì mất,em là Lưu-Cung (Lưu-Nham) lên thay,năm 911 Lưu-Cung tự xưng đế lấy quốc hiệu là Đại-Việt,mãi đến năm 917 đổi là Nam-Hán.
Trong đoạn này (911-917) ta thấy Lưu-Cung có ý đồ thống trị dân Việt,nên lấy quốc hiệu là Đại-Việt,nhưng mãi đến năm 917 Khúc-thừa-Mỹ không phục Lưu-Cung,nên Lưu-Cung đổi Đại-Việt thành Nam-Hán,đây là lối chính trị người Hán thường áp dụng.(không cần đánh để khuất phục đối phương,cũng như Triệu-Đà khi dẹp yên nhà Thục sát nhập 2 tỉnh Quảng-Đông,Quảng-Tây làm thành nước Nam-Việt.Chúng ta phải nhớ nước Văn-Lang đã phân ranh rõ ràng từ thời Sũng-Lãm Lạc-long-Quân,Vùng Bách-Việt đã hoàn về cho giòng họ Đế,cho nên năm 911 thấy Lưu-Cung xưng đế lấy quốc hiệu là Đại-Việt rồi thành Nam-Hán (917),Khúc-thừa-Mỹ không phục.
*Khúc-thừa-Mỹ.(917-923).
Năm 917 Khúc-Hạo mất,con Khúc-thừa-Mỹ lên thay,nhận biết được ý đồ Nam-Hán,nên nhận chức tiết độ sứ nhà Lương mà không thần phục Nam-Hán.Năm 923 Nam-Hán sai Lý-khắc-Chỉnh lãnh bộ binh Lý-Tiến lãnh thủy binh cùng tiến đánh Giao-Châu và diệt giòng họ Khúc (Giòng họ Khúc tuy không xưng vương,nhưng đã 17 năm (906-923) cùng dựng Văn-Lang để tránh họa Lưu-Cung đồng hóa dân tộc Việt từ Đại-Việt thành Nam-Hán,ý đồ này chỉ có Khúc-thừa-Mỹ nhận ra,như vậy họ Khúc có phải là người Việt không ?
Đây nói lên tính thông minh của Khúc-thừa-Mỹ nào ai biết được.
Sử rằng chỉ có mấy câu.
Nào ai để ý biết đâu mà làm.
Ôi thôi sử qúa làm nhàm.
Người sau sao hiểu câu đàm sử gia.
*Dương-diên-Nghệ và Kiều-công-Tiển(931-938).
Năm 931 Dương-diên-Nghệ là tướng Khúc-Hạo mộ binh đánh lại Lý-khắc-Chỉnh và Lý-Tiến,tự làm tiết độ sứ Giao-Châu,đánh được 6 năm Dương-diên-Nghệ bị gia tướng là Kiều-công-Tiển giết và cướp lấy binh quyền,được tin cha vợ mất Ngô-Quyền đem binh chinh phạt.
Trong giai đoạn này ta thấy Dương-diên-Nghệ đã bắt đầu ly khai nhà Lương và tự lãnh đạo quân Giao-Châu chống lại Nam-Hán trong 6 năm liền.Đến đây chúng ta thấy có người nào họ Lê,Lý,Trần,Nguyễn nào đâu.Qua sử cho biết những người có quan niệm
*Ngô-Quyền phá quân Nam-Hán.(938-939)
Kiều-công-Tiển cầu Nam-Hán giúp,quân Nam-Hán chưa kịp đến Ngô-Quyền đã bắt được Kiều-công-Tiển và giết.Vua Nam-Hán sai con là Hoàng-Thao lãnh thủy binh tấn công từ sông Bạch-Đằng,Ngô-Quyền dùng cọc gỗ lớn đầu bọc sắt cấm dưới lòng sông,chờ khi nước ròng Ngô-Quyền tấn công,quân Nam-Hán loạn vì thuyền tự nhiên bị chìm,Hoàng-Thao bị loạn tên bắn chết trên sông Bạch-Đằng.
NGÔ-QUYỀN DỰNG NƯỚC Làm tướng-quân giúp Dương-diên-Nghệ.
Đánh Kiều-công-Tiển chạy bỏ cờ.
Nam-Hán sai Hoàng-Thao đến giúp.
Chờ nước ròng dụ địch tấn công.
Với cột gỗ trên đầu bọc sắt.
Dìm dưới sông gài bẩy quân thù.
Thuyền Hoàng-Thao mắc mưu thụ địch.
Bị quân Quyền đánh chìm vô số.
Thao bị giết trên sông Bạch-Đằng.
Thế là quân ta đà đại thắng.

Trong cái năm chín trăm ba chín.
Dân Việt ta dành lại chủ-quyền.
Dựng lên nước Việt-Nam độc-lập.
Với Ngô-Quyền rạng rở lừng danh
Đưa dân-tộc đến chổ vinh-quang.
Không còn sống cuộc đời nô-lệ.
Để đất nước thêm phần rạng rở.
Dân-tộc ta đời đời ghi nhớ.
Được-Lời (LKC)
Thời đại độc lập.
Nhà Ngô(939-965).
1-Tiền Ngô-Vương(939-944).
Ngô-Quyền đánh đuổi quân Nam-Hán,bắt đầu nền độc lập cho dân tộc Việt,đóng đô ở Cổ-Lao,năm 944 ông mất,được 47 tuổi,truyền ngôi lại cho con Ngô-xương-Xí lên thay,nhưng cậu là Dương-tam-Kha cướp ngôi lên làm vua xưng là Bình-Vương.(945).
2-Dương-bình-Vương(945-950).
Dương-tam-Kha cướp ngôi vua của cháu Ngô-xương-Xí,Ngô-xương-Xí biết được chạy đến Nam-Sách (Hải-Dương) ẩn trốn tại nhà Phạm-lịnh-Công,lúc này thổ hào các nơi cũng nổi lên khắp nơi chiếm vùng tự trị,Dương-tam-Kha bắt em Ngô-xương-Ngập (Ngô-vương-Văn) làm con nuôi.Năm 950 ở Thái-Bình(Tây-Sơn) có loạn,Dương-tam-Kha sai Ngô-vương-Văn cùng 2 tướng Dương-cát-Lợi và Đổ-Cảnh đem quân đi dẹp loạn,đi đến Từ-Liêm,Ngô-vương-Văn cùng 2 tướng ngược trở về bắt Dương-tam-Kha,nở tình cậu cháu Ngô-vương-Văn không nể giết chỉ giáng xuống làm Trương-dương-công.
3-Hậu Ngô-Vương (950-965).
Năm 950 Ngô-vương-Văn lên làm vua xưng là Nam-tân-Vương cho người rước anh Ngô-xương-Xí về cùng làm vua,Ngô-xương-Xí xưng là Thiên-sách-Vương,thời này gọi là Hậu Ngô-Vương có 2 người cùng làm vua,nhưng chỉ vài năm sau Ngô-vương-Văn đem quân đánh trận bị chết(loạn 12 sứ quân),chỉ còn Ngô-xương-Xí làm vua 1 mình mãi đến năm 965 thì mất.
Qua đoạn sử này,chúng ta thấy giòng họ Dương lên ngôi vua,lý do vì được người chị (Vợ Ngô-Quyền) ủng hộ,nói lên trong thời đầu lập quốc,nước Việt ta vẩn còn chịu ảnh hưởng của Xã hõi mẫu hệ,bởi thế sinh ra loạn 12 sứ quân.
Thập nhị sứ-quân(945-967).
Ngô-Quyền mất,Dương-tam-Kha cướp ngôi vua của cháu (Ngô-xương-Xí),khiến thổ hào nổi lên khắp nơi (945) tự dựng một vùng gọi là sứ quân,về sau Ngô-vương-Văn khôi phục nghiệp củ,các sứ quân vẩn không chịu thần phục,Ngô-xương-Ngập phải lảnh binh chinh chiến liên tục bị chết tại chiến trường,Ngô-xương-Xí làm vua một mình.Đất nước lúc này gồm có 12 sứ quân:
1-Ngô-xương-Xí giữ Bình-Kiều,phủ Khoái-Châu (Hưng-Yên).
2-Đổ-cảnh-Đạt giữ Đổ-động-Giang,ở huyện Thanh-Oai.
3-Trần-Lãm tức Trần-công-Minh giữ Bố-hải-Khâu (Kỳ-Bố Thái-Bình).
4-Kiều-công-Hản tức Kiều-tam-Chế giữ Phong-Châu (huyện Bạch-Hạc).
5-Nguyễn-Khoan tức Nguyễn-thái-Bình giữ Tam-Đài (phủ Vỉnh Tường).
6-Kiều-Thuận tức Kiều-lịnh-Công giữ Hồi-Hồ (Cẩm-Khê Sơn-Tây).
7-Ngô-nhật-Khánh tức Ngô-lãm-Công giữ Đường-Lâm (Phúc-Thọ Sơn-Tây).
8-Lý-Khoe tức Lý-lang-Công giữ Siêu-Loại (Thuận-Thành).
9-Nguyễn-thủ-Thiệp tức Nguyễn-lịnh-Công giữ Tiên-Du (Bắc-Ninh).
10-Lữ-Đường tức Lữ-tả-Công giữ Tề-Giang (Văn-Giang Bắc-Ninh).
11-Nguyễn-Siêu tức Nguyễn-hữu-Công giữ Tây-phù-Liệt(Thanh-Trì Hà-Đông).
12-Phạm-bạch-Hổ tức Phạm-phòng-Át giữ Đằng-Châu (Hưng-Yên).
Nhà Đinh (968-980).
*1-Đinh-thiên-Hoàng(968-979).
Đinh-bộ-Lĩnh là người Hoa-lư-Động (Ninh-Bình),con ông Đinh-công-Trứ làm quan thứ sử dưới thời Dương-diên-Nghệ và thời Ngô-Quyền Vương,đến đầu Trần-minh-Công (Trần-Lãm),Trần-Lãm tin dùng và giao giữ binh quyền,sau Trần-Lãm mất,ông chiêu mộ thêm binh mã,hào kiệt khắp nơi hưởng ứng,năm 951 thời Hậu Ngô-Vương-Văn có đem binh sang đánh với Đinh-bộ-Lĩnh nhưng không thắng được,năm 965 Ngô-Vương (Ngô-xương-Xí) mất,Đinh-bộ-Lĩnh hàng được Phạm-bạch-Hồ(Phạm-phòng-ÁT),phá được Đổ-cảnh-Thạc và các sứ quân khác đều thần phục,được tôn là Vạn-thắng-Vương.Năm 968 Đinh-bộ-Lĩnh Vạn-thắng-Vương lên ngôi Đinh-thiên-Hoàng quốc hiệu là Đại-cồ-Việt đóng đô ở Hoa-Lư,xây cung điện lập chế triều nghi,định phẩm hàm các quan văn võ trong triều,phong Nguyễn-Bắc làm định-quốc-công,Lê-Hoàn làm thập đạo tướng quân,Đinh-Liễn làm Nam-quốc-Vương.Năm 970 đặt niên hiệu là Thái Bình nguyên niên,đặt năm ngôi hoàng hậu,trong lúc này bên Tàu Triệu-khuôn-Dẩn đã lên làm vua lập lên nhà Tống (sau này gọi là Bắc Tống) đem quân xuống đánh Nam-Hán,Đinh-thiên-Hoàng muốn tránh việc chiến-tranh bèn làm thông hiếu (thuận việc triều cống) với nhà Tống,bên trong tổ chức lại quân cơ phòng địch tấn công,tổ chức quân đội thành 10 đạo mổi đạo 10 vạn quân, trên thực tế nhà Đinh chỉ có 10 vạn quân đều dưới sự thống lãnh của tướng quân Lê-Hoàn.Đinh-thiên-Hoàn bỏ trưởng lập ấu,cho con út Hang-Lang làm thái tử,con trưởng
Nam-việt-Vương Đinh-Liễn bày mưu giết Hang-Lang.Năm 979 Đinh thiên-Hoàng và Việt-việt-Vương bị Đổ-Tích giết chết,(Đinh-thiên-Hoàng làm vua được 12 năm),đình thần bắt được Đổ-Tích trị tội và tôn Đinh-Tuệ lên làm vua,vương hiệu là Đinh-vệ-Vương,mới có 6 tuổi,mọi việc triều chánh đều ở trong tay Lê-Hoàn,vì Lê-Hoàn có tư thông với Dương Hoàng hậu từ lâu,các tướng Đinh-Điền,Nguyễn-Bắc thấy Lê-Hoàn lộng quyền cử binh về đánh đều bị Lê-Hoàn diệt cả.Trong tình thế này nhà Tống bên Tàu lấy cớ cử binh xâm chiếm nước ta,Lê-Hoàn sai tướng Phạm-cự-Lương làm Đại tướng đem binh chống địch,trước khi ra quân,Phạm-cự-Lương tôn Lê-Hoàn lên làm vua,ngày nay chúng ta gọi là Tiền Lê và Đinh-vệ-Vương gọi là Phế Đế.(Tục truyền Đổ-Tích nằm chiêm bao thấy sao trên trời rơi vào miệng,tưởng mình có mạng làm vua nên Đổ-Tích chờ dịp Đinh-thiên-Hoàng say rượu ngủ mê rồi ra tay giết vua và giết cả Việt-quốc-Vương Đinh-Liễn,nhưng khi ta đọc tiếp sự tình ở sau ta thấy rõ:Đây là âm mưu của Lê-Hoàn và bà Dương-hoàng-Hậu,vì 2 người đã tư tình với nhau).Lúc xưa sử chép là thế,nhưng ngày nay chúng ta có nhận xét gì không?Một vì vua thông minh như Đinh-bộ-Lĩnh cùng Đinh-Liển lại bị giết bởi tên Đổ-Tích vô danh này,trong khi đó Lê-Hoàn là đại tướng quân nhà Đinh lại tư thông với Hoàng hậu họ Dương,giòng họ có thế lực nhất từ thời Ngô-Quyền,cũng bởi cái quyền của phụ nữ trong thời buổi này,xã hội mẫu hệ,nên Hoàng hậu họ Dương trao quyền lãnh đạo quốc gia cho Lê-Hoàn. .
Kẻ dâm ô tục tằng có chước.
Bày mưu gian hãm hại Minh-quân.
Người đời đâu hiểu rõ chân tình.
Bởi sử viết theo lời Bạo chúa.
*2-Phế-Đế(979-980).
Đinh-thiên-Hoàng mất Đinh-Tuệ lên làm vua mới có 6 tuổi,mọi việc triều chánh đều ở trong tay Dương thái hậu và thập đạo tướng quân Lê-Hoàn,Lê-Hoàn cùng Dương-Hậu tư thông từ lâu,nhầm lúc bên Tàu nhà Tống đem quân sang đánh,quân Tống gần đến biên giới Lê-Hoàn sai Phạm-cự-Lương làm đại tướng đánh giặc Tống,trước khi xuất quân Phạm-cự-Lương tôn Lê-Hoàn lên làm hoàng-đế để khích lệ lòng quân,cả đoàn quân đều tung hô ủng hộ,Dương hậu bèn đem ấn tín áo mảo của Đinh-thiên-Hoàng trao cho Lê-Hoàn,thế là Đại-cồ-Việt mất,Đại-Việt có triều đại mới,trong lịch sử ta gọi đây là Tiền-Lê.Như vậy nhà Đinh làm vua được 14 năm.
Tình thế gấp kẻ khôn tạo thế.
Lấy thông minh che lấp gian tà.
Đời lẩn lộn thế cuộc gian manh.
Bưng bít mãi triền miên sử sách.
Nhận định.

A-Trong 2 triều đại Ngô-Đinh,2 ông vua đầu đều có vợ là họ Dương,trong thời vua Ngô,Dương-tam-Kha em vợ của vua cướp ngôi vua của cháu mới gây nên loạn 12 sứ quân,trong thời vua Đinh-thiên-Hoàng có vợ cũng họ Dương tư thông với Lê-Hoàn (trong sử "Dương hậu" có lúc gọi Dương Hoàng hậu là lúc còn Đinh-thiên-Hoàng,có lúc gọi Dương Thái hậu là lúc bà là mẹ vua Đinh-Tuệ),bày ra chuyện Đổ-Tích nằm mơ mình sẽ là vua rồi bày mưu sự giết vua,sau đó Lê-Hòan lên ngôi vua với danh chánh ngôn thuận là vua châh chính do toàn quân đưa lên.
Nhưng ngày nay với nhận xét của chúng ta đều thấy sự kiện này đều có liên quan đến người vợ họ Dương,cho ta thấy được trong thời đại này người phụ nữ vẩn còn ảnh hưởng đến quan niệm của một xã-hội mẩu hệ,và cũng chính từ "Xã hội mẫu hệ" sang "Xã hội phụ hệ" qúa hơn 2.000 năm,ảnh hưởng không nhỏ trong xã hội Việt-Nam,đồng thời đấng chính trị "mày râu" đưa lên chiêu bài "ngàn năm nô lệ Tàu" để được sự ủng hộ toàn dân,rồi sau đó vẩn ung dung đón nhận tư tưởng Trung-Hoa để cai trị dân mình,chẳng qua là "Nồi củ chỉ dung mới","Phép vua thua lệ làng" là hình thức phong kiến của người Tàu ngày xưa,đạo "Trung hiếu" là tư tưởng gầy nên "Chính quyền quân chủ chuyên chế".Sao chúng ta không nghỉ lại thời lập quốc của nước Văn-Lang,lấy đạo "Tam-Bình" làm gốc,thể hiện rõ sinh hoạt của "Cộng-Đồng",nói lên sự "Tự do và Độc lập",còn đạo "Tu thân,tề gia,trị quốc,bình thiện hạ",thể hiện rõ sinh hoạt của cá nhân,nên những người làm chính quyền thường hay "Độc tài và hung ác".

B-Họ Hồng-Bàng là một thể chế chính trị được đặt ra bởi Sùng-Lãm trong một xã-hội theo mẩu-hệ,vì trong xã hội mẩu hệ con sinh ra phải mang họ mẹ,người mẹ có nhiều ưu thế trong gia đình,trong xã hội mẩu hệ người nam rất qúy trọng người nữ,nhưng trong lãnh đạo quốc gia vẩn thuộc về người nam,dân tộc Việt-Nam ta có Kinh-dương-Vương Lộc-Tục,vua thứ nhì là Lạc-long-Quân Sùng-Lãm,nếu cứ thế mà tiếp tục thì ta

sẽ có nhiều họ khác nhau trong các đời vua kế tiếp,như thế triều đại dễ bị sụp đổ bởi quyền của người mẹ,muốn cũng cố cho triều đại lâu dài,nên Sùng-Lãm mới đặt luật lệ (luật lệ không thành văn),"người làm vua gọi là Hùng-Vương có họ là Hồng-Bàng",còn tất cả anh em khác vẩn theo họ mẹ,điều đó cho ta thấy triều đình chỉ có 1 người duy nhất điều hành đó là vua Hùng-Vương,chính con đầu của Sùng-Lãm là vị vua Hùng-Vương đầu tiên mang họ Hồng-Bàng,như thế Sùng-Lãm không trái với luật xã-hội thời đó (mẩu-hệ),đồng thời củng cố thể chế chính trị trong các đời vua kế tiếp.

"Luật được tôn trọng xã-hội mới yên ổn".Sùng-Lãm đúng thật một luật gia đầu tiên của Việt-Nam.Bởi thế ta có thể nóì họ Hồng-Bàng chỉ có 18 vị vua Hùng-Vương mới mang họ này mà thôi.

C-Chuyện 100 người con của Sùng-Lãm và Âu-Cơ,vì thời này dân tộc ta vẩn chưa có văn hóa,mọi sự việc đều do truyền miệng truyền đến đời sau,khi vừa sanh 100 người con Sùng-Lãm nói với Âu-Cơ "Ta là rồng nàng là tiên,thủy hỏa không hợp nên phải chia nhau,nàng dẩn 50 con lên núi ta dẩn 50 con xuống biển"lời nói đó cho ta thấy rỏ chữ "Hòa" (thủy hỏa không hợp),50 người con theo mẹ lên núi,50 người con theo cha xuống biển,cho ta thấy rỏ chữ "Bình",núi và biển nói về thiên nhiên cho ta thấy sự yên tỉnh và tự nhiên của vũ trụ,nói rỏ chữ "Thái" và chữ "Thanh",nói lên sự đời không mờ đục,không ẩn ý,không gian dối,mọi việc đều tỏ rõ và chân thành.Đây là tư-tưởng của Sùng-Lãm,đem quan niệm "Tam-bình" trực tiếp vào cuộc sống để tạo đời sống thái-hòa trong dân-gian.Hình ảnh con vua sống cùng với dân gian gợi lên hình ảnh các quan lãnh đạo đều là anh em một nhà,để tránh việc tranh dành quyền lợi mà đánh lộn với nhau.Quan niệm Tam-bình thực sự đem lại THANH-BÌNH HÒA-BÌNH VÀ THÁI-BÌNH cho dân tộc Việt trong suốt 18 đời vua Hùng-Vương,tổng cộng 821 năm (1079tcn-258tcn) vẩn là đời vua lâu dài nhất kể cả các triều đại bên Tàu,nhờ có kỷ cương và luật lệ.

Những dòng lịch sử này và lời nhận định là quan điểm cá nhân người viết,chuyện lịch sử là chuyện chung của tất cả mọi người,xin tất cả chung góp bàn tay cùng xây dựng cho đất nước Việt-Nam.


Được-Lời (LKC) Ngày 28-06-2014