Wednesday, November 4, 2015

Chế biến nước uống từ nước biển

Chế biến nước uống từ nước biển.

 Ngày 22/3/2015. Quốc tế biểu dương là "Ngày của Nước",được tổ chức đều đặn từ năm 1994,"Ngày nước quốc tế" nhắc nhở cho chúng ta biết:"Hiện còn hằng tỷ người chưa tiếp cận đến nguồn nước sạch".Theo báo cáo thường niên của Liên-Hiệp-Quốc:"Nhu cầu về nước trên thế giới tăng vọt,hiện có đến 20% lượng nước ngầm đã bị khai thác qúa mức,nếu không có biện pháp chúng ta sẽ bị thiếu nước nghiêm trọng từ nay đến năm 2030.Hiện có đến 2,5 tỷ người không có điều kiện vệ sinh ổn định dễ gây ô nhiễm cho nguồn nước.Để vượt qua các thách thức trên,Liên-Hiệp-Quốc đề nghị:"Hạn chế sử dụng các nhà máy nhiệt điện thay thế vào các nguồn năng lượng không ô nhiễm đến nguồn nước,cần lựa chọn cách tiêu dùng lượng nước hiệu qủa để chống lãng phí nước".(rfi)  

 Trong tương lại nhu cầu nước uống là một mối lo của con người,vì nguồn nước sạch từ lục địa trở nên khan hiếm hơn không những bởi thời tiết khắc nghiệt mà còn do con người tạo nên bởi sự ô nhiểm từ các công xưởng.Đây là một đề tài đã có nhiều người đề cập đến,không ch là nước uống mà còn cho việc sản xuất hoa màu trồng trọt nông nghiệp.Nó rất quan trọng trong lãnh vực môi sinh,nước cần tinh khiết để đảm bảo sức khỏe con người.Bởi thế việc "Chế biến nước uống từ nước biển" là nguồn cảm hứng cho nhiều người nghĩ đến.
 Theo sáng kiến của Kỹ sư Vương-xuân-Điềm:
 "Chế biến nước ngọt từ nước biển đã có từ lâu đời:Đem nước biển đun lên bốc thành hơi nước rồi cho qua chỗ lạnh thì hơi nước đọng lại thành nước ngọt". Khoảng năm 1950, các quốc gia vùng sa mạc Ả Rập dùng máy chưng cất nước biển khổng lồ dựa trên phát minh gọi là Multiple Effect Distillation (M.E.D). Trong phương pháp này họ sử dụng nhiệt lượng tỏa ra do hơi nước đọng lại thành nước ngọt để chưng cất nước biển mới, cứ như thế lập đi lập lại nhiều lần (khoảng 15 lần).

I-Chưng cất nước biển.
 Trong cách làm nguội nguồn hơi nước t 100° C (312° F) hạ xuống 21°C (70° F) cần một hệ thống làm lạnh,thông thường dùng nước hoặc nguồn lạnh bọc xung quanh ống dẩn hơi trong nhiệt độ phải thấp dưới 21°.Vậy như thế nào để tái sử dụng nhiệt lượng tỏa vào trong hệ thống làm lạnh ở 21°C,rõ ràng không minh bạch trong cách giải thích "phương pháp M.E.D",thật tình người thường khó hiểu được.
 LKC tôi là một sĩ quan được đào tạo từ Trường HQSQ/NT có nghe giảng qua về cách "Chưng cất nước uống từ nước biển" nhưng cũng chưa nghe qua "phương pháp M.E.D" là như thế nào,nhưng qua bài viết trên cho tôi một quan niệm "Tái sử dụng năng lượng" từ sự chưng cất nước biển.
 Thông thường động cơ tàu được làm nguội bằng nước biển,nước biển ra khỏi động cơ thường có độ nóng 80° C (176° F),nước thoát này vào lò nung tiếp tục đến độ sôi bốc hơi mạnh ở 100° C (312° F).(Chúng ta cần phân biệt "độ sôi của nước" là 100° C,nhưng "độ bốc hơi" thì bất cứ nhiệt độ nào cũng có "sự bốc hơi",sự bốc hơi càng mạnh khi nhiệt độ ở 100° C).Trong lò nung sôi có trang bị những thanh điện trở (element) nằm ở bên trong lò nung chính,lò càng nhỏ thì sự bốc hơi càng nhanh.(để tránh phòng chứa lò nung nóng thì bên ngoài được bọc lớp cách nhiệt,insulation này chúng ta thay bằng nhiều ngăn chứa nước biển từ máy tàu thoát ra cho chảy vào những ngăn bọc bên ngoài,có thể từ 5-6 ngăn,những ngăn này như là ngăn cách nhiệt,như thế những ngăn tự động có nhiệt độ giảm dần ở từng ngăn (như 98°C 95°C 85°C 80°C 75°C 65°C) . Lò nung theo cách này cho chúng ta thấy rõ ràng nhiệt năng thoát ra từ lò chính được tái xử dụng.Như thế nhiệt độ nước biển t 80° C sẽ tăng dần theo từng ngăn để có độ nóng được chuẩn bị thích hợp chảy vào lò chính mà không trở ngại việc đun sôi để bốc hơi.
 Lò nung này có thể chạy liên tục bởi sự tiếp nước biển liên tục từ động cơ tàu,các ngăn được thông nhau bởi một cửa nhỏ ở thành bên trong giữa các ngăn,cửa này sẽ có lưu lượng nước vào bằng lượng nước bốc hơi để trở thành nước uống,các cửa thường nằm ở phần trên của ngăn nhưng dưới mực nước của lò nung (khoảng 1/10 chiều cao của cột nước trong lò chính).Chỉ riêng 2 cửa nằm ở phần gần đáy lò,đó là cửa dẩn nước biển từ động cơ vào thành ngoài cùng của hệ thống lò nung (cửa này cao hơn đáy lò 1/10 cột nước) và cửa thứ 2 là cửa nằm trên vách ngăn giữa lò nung chính và vách ngăn cách của vòng ngăn thứ nhất (cửa này phải nằm khoảng cách đáy lò 1/4 cột nước).
 Tại sao cửa thông ở đây phải ở vị trí 1/4 cột nước tính từ đấy lò,vì trong lò chính 21% thể tích từ đáy sẽ là nước muối (360g/lít),chúng ta sẽ tháo nước muối này trở lại biển cả.Lò nung kiểu này sẽ liên tục hoạt động không ngừng.Đây là công nghệ "Chế biến nước uống từ nước biển" sẽ tái xử dụng trong tương lại,vì chỉ cần năng lượng từ lò nung chính để đem nhiệt độ từ 80° C đến 100° C ,hơi nước được đọng lại thành nước ở nhiệt độ 21° C.

II-Dùng màng bán thấm lọc muối.
 Kỹ sư Vương-xuân-Điền trình bày tiếp :
 Đến khoảng năm 1969, Hoa Kỳ dùng màng bán thẩm (Reverse Osmosis Membranes) làm bằng Cellulose Acetate (CA), người ta dùng áp lực ép nước đi ngang màng bán thẩm này, chỉ có nước đi ngang còn muối đọng lại. Đến đầu thập niên 1980 họ thay dùng Thin Film Composite (TFC) làm bằng Polyamide (PA),một phó sản của dầu hỏa. Từ khi phát minh ra cái này, giá thành lại rẻ hơn trước,vì sản xuất nhiều nước hơn, và từ đó đến nay phương pháp này được ứng dụng nhiều hơn phương pháp đun sôi nước để đọng lại. Tuy nhiên, dù giá thành đã hạ xuống nhưng vẫn còn khá đắt. Thường thường người ta phải dùng 30 KW điện mới làm được 1,000 gallon nước ngọt. Dần dần họ cải thiện và bây giờ giảm xuống còn khoảng 12 KW cho 1,000 gallon.
 Phương pháp dùng màng bán thấm chỉ nói lên sự tiến bộ của ngành lọc nước,cũng như lọc tất cả các chất bẩn từ nguồn nước cặn bả,đây là một tiến bộ lớn trong ngành lọc nước hiện nay.Một điều chúng ta cần để ý :Đó là nguồn nước ô nhiểm hóa chất,không đề cập đến,điều này nói lên việc lọc nước còn nằm trong giới hạn nhỏ chưa được phổ biến trong công trình lớn.

 Máy lọc nước KS Vương xuân Điềm
Năm 2002 kỹ sư Vương Xuân Điềm nghĩ nếu bây giờ mình đưa nước biển vào ép một lần thì nó sẽ đắt tiền hơn là mình làm thành nhiều giai đoạn. Sáng kiến này được thành phố Long Beach kiểm nhận và sau đó ông được chính phủ Hoa Kỳ cấp bằng sáng chế vào năm 2005. Phương pháp làm hai giai đoạn của ông khiến giá thành rẻ đi 15%.
 Khi về hưu, ông có thêm sáng kiến:Tại sao không đem những màng bán thẩm bỏ ra ngoài biển lấy nước ngọt đem về, làm như vậy đỡ công hơn. Phương pháp này tính ra chỉ tốn có 4 KW địện cho 1,000 gallon nước ngọt, tức là giá thành rẻ chỉ bằng 1/3 giá thành của các nhà sáng chế trước đó.
 Ông cho biết thêm, California được cung cấp nước bởi hai nguồn nước, 
-một là từ sông Colorado bơm về, 
-một nguồn nữa là do các hồ chứa nước trên miền Bắc chuyển xuống. 
Nước từ sông Colorado phải cần 6.2 KW cho 1,000 gallon, nhưng đối với nước lấy từ miền Bắc xuống thì xa hơn và nó phải đi qua nhiều dãy núi nên mất khoảng 9KW cho 1,000 gallon.
So sánh với phương pháp của ông chỉ mất 4KW thì thật là rẻ. 
Nhưng phương cách của ông có hai trở ngại:
-một là phải mang điện ra biển để chạy máy bơm, 
-hai là nước ngọt mang từ độ sâu khoảng 300 mét ngoài biển về phải tốn kém về đường ống .
 Đây là một dự án lớn tốn kém nhiều về ngân sách,nên dự án của ông không được chính phủ Mỹ thuận chi cho kế hoạch "giải quyết nạn hạn hán ở California",mặc dầu sáng kiếnđược chính phủ Hoa-Kỳ cấp bằng sáng chế năm 2005 .
 Trong sáng kiến Kỹ sư Vương-xuân-Điền:4KW cho 1,000 gallons dùng cho việc ép nước biển vào màng bán thấm,trong khi đó phải dùng thêm màng lọc,dù điện giảm còn 1/3 ,nhưng điện tiêu thụ cho 2 nguồn nước từ miền Bắc và Colorado vẩn không cải thiện,nên gía thành nước giảm 15% ,tuy có cải thiện chút ít về gía thành,nhưng nước thu nhập vào vẩn chưa dồi dào đủ ? Vã lại nước biển lọc được vẩn phải hòa chung với 2 nguồn nước thiên nhiên vừa kể ở trên.

 Khách quan nhận xét 2 phương pháp trên 
 *Phương pháp chưng cất nước biển: lò chính được trang bị có nhiều ngăn nước làm cách nhiệt là cách "có thể tái dùng ở tương lai",ví đơn giản và trang cụ giữ được lâu dài, (vì hệ thống trang bị chỉ cần lò nung và nguồn điện).
 *Phương pháp dùng màng lọc thì cần liên tục thay màng lọc nên chỉ là phương pháp tạm thời,không có tính cách phổ quát lâu dài.Vì Thin Film Composite (TFC) làm bằng Polyamide (PA) là một phó sản của dầu hỏa nên không chắc là giá rẽ ở tương lai. 
 Kết luận cho chúng ta thấy:Phương pháp chưng cất vẩn phải dùng trở lại.Vì không rõ "phương pháp M.D.E" tái dùng năng lượng từ nguồn hơi nước như thế nào,nên tôi đưa lên mô hình "lò nung có nhiều ngăn làm cách nhìệt" để cùng tìm hiểu cách "Chế biến nước uống từ nước biển" ngỏ hầu có "nguồn nước sạch" cần thiết sau này.

III-Dùng bức xạ chiết muối khỏi nước biển.
 Vấn đề nước sạch vẩn là đề tài cần thiết trong "Địa công nghệ",nhưng những sáng kiến vừa kể trên chỉ tạm thời trong giải đoạn ngày nay,như thế sẽ ảnh hưởng rất lớn cho tương lại trong thời tiết khắc nghiệt "mưa lủ hạn hán bất thường".
 Địa cầu đang trong thời kỳ báo động mà khoa học gia vẩn chưa bày tỏ rõ ràng mà chỉ chờ ở các chính trị gia quyết định trong đầu tháng 12/2015 năm nay,rõ thực là mơ hồ và càng nguy hiểm hơn khi ở Âu châu có người đưa đề án "phun các nguyên tử lưu huỳnh" vào tầng đối lưu không khí ở thượng tầng khí quyển,trong khi con người có thể thu hồi lượng CO2 thải ra từ các công xưởng và cải biến nguồn nước biển trở thành nước uống theo phương cách dùng "bức xạ".
  a-Năng lượng Bức xạ
 "Vụ Nổ Lớn" từ "Vũ trụ nguyên thủy" làm nhiệt độ tăng lên 1032 độ K chỉ trong khỏang 10-35 giây,khiến thể tích Vũ trụ tăng lên 1078 lần trong vòng một miligiây.Sau 400 nghìn năm,nhiệt độ Vũ trụ được ghi nhận 3.000° K và Vũ trụ thu nhỏ lại chỉ còn 10lần (1 tỷ) hơn so với "Vũ trụ nguyên thủy" và đã tồn tại đến nay được 13,82 tỷ năm,trong  "bức xạ phông vũ trụ" nhiệt độ đo được 2,7° K (~ -270,3° C).
 Nhiệt độ 2,7° K cố định nói lên "nhiệt độ bảo-hòa của Vũ trụ","Bức xạ phông vũ trụ" được phát hiện tình cờ năm 1964 bằng một chiếc kính thiên văn vô tuyến đặt trên mặt đất,trên đó chứa đựng nhiều thông tin liên quan đến Vũ trụ sơ sinh và quá trình tiến hoá cuả Vũ trụ.
 Thời gian 10-35 giây là thời gian "Bức xạ" di chuyển cùng "Vụ Nổ Lớn" cũng có thể nói là thời gian tương đối để Vũ trụ lớn hơn 10lần so với "Vũ trụ nguyên thủy" và nhiệt độ 3.000° chính là nhiệt độ khởi đầu của Mặt trời.S sáng Mặt trời bắt dầu xuất hiện,được Máy Gia tốc hạt lớn LHC "Big Bang" ghi nhận từ "bức xạ phông vũ trụ".Vậy vận tốc để "Bức xạ"trở về 2,7° K" cũng là thời gian 10-35 giây.Điều này nói lên "bức xạ" là nguồn năng lượng mạnh nhất,do đó những vật thể bảo hòa được hấp dẩn dễ dàng khi "bức xạ" ngang qua.
 b-Đặc tình nước biển.
 Trong nước biển có độ muối khoảng 75g/lít tính từ  hệ thức:
  NaCl + 41.H2O 
kết qủa thực hành muối hòa tan trong nước thì được 360g/lít ,
Sự kiện này giải thích như sau:
Bảo-hòa lần thứ:
1-NaCl(58,5) + 41.H2O.m18                     ( m=19) 
2-NaCl(58,5) + 40.H2O.m19+ H2O.m18   (m=20)
3-NaCl(58,5)+39.H2Om20+ H20.m19+H2O.m18   (m=21)
4-NaCl(58,5)+38.H2O.m21+3.H2O   (m=22)
5-NaCl(58,5)+37.H2O.m22+4.H2O    (m=23)
6-NaCl(58,5)+36.H2O(23)+5.H2O     (m=24)
7-NaCl(58,5)+35.H2O(24)+6.H2O      (m=25)
Theo lý thuyết từng giai đoạn bảo hòa:số muối tăng tăng theo cấp bảo-hòa,nhưng lượng nước mổi lần đều là 41.H2O.Vậy kết qủa trên thực hành chúng ta chỉ hòa 7 Nacl vào 41.H2O ,được tính như sau:
*7.Nacl =7(58,5)=410g  trong 41.H2O=738cc 
*410g Nacl có thể tích 410/1,07=383cc   
kết qủa 7 lần bảo-hòa,ta có 410g muối trong thề tích 1.121cc.
suy ra ta có 366g muối/lít,( 6g NaCL bằng 1,6%),điều này đúng với định lý bảo-hòa,gần với thực hành muối hòa tan trong nước 360g/lít , 
 Điều chứng minh trên phù hợp độ mặn nước biển tại Biển Chết (Dead Sea), hiện tượng nước biển đã dẩn chứng cho nguyên lý này.Nước biển 360g muối/lít thường nằm ở gần bờ và 75g muối/lít bao phủ khắp mặt đại dương (3/4 diện tích Địa cầu),trong khí đó mực nước biển sâu dưới 300m lại có thành phần muối rất ít,có thể gần như là không có muối nên có hiện tượng bảo-hòa (H2O+2CH4) đóng băng dưới độ sâu 3.000m đáy biển ở 2 vùng cực Địa cầu.
 Phân tử nước từ đấy biển tiếp thu nhiệt nên trọng khối nhẹ hơn có khuynh hướng trồi lên mặt nước,sự chuyển động này sẽ mang những phân tử nước muối bảo hòa (75g/lít) lên mặt biển và được đưa đẩy vào bờ tạo thành vùng biển có độ muối 360g/lít ,đây là thường thức thiên nhiên vì Địa cầu xoay nên những bảo-hòa lúc nào cũng tiếp thu năng lượng từ Vũ trụ,bởi thế nước muối bảo-hòa lúc nào cũng nằm trên mặt đại dương.
 c-Thực tế tự nhiên..
 Hiện tượng khoa học thiên nhiên,tương quan giữa "bức xạ" và "bảo-hòa,vì bức xạ là nguồn dẩn chất bảo-hòa.Như thế chúng ta thấy trong máy "Tạo bức xạ" sẽ kéo bảo-hòa 360g muối/lít lên trên mặt nước nhờ nguồn "Bức xạ" ,từ kết qủa này máy sẽ phân rời dung dịch thành 2 nguồn riêng biệt. 
 Cách làm máy "bức xạ" tách muối ra khỏi nước biển hoặc máy chưng cất nước biển là loại máy kỹ thuật rất đơn giản mà hầu hết quốc gia nào cũng có thể làm được,những loại máy này có tính cách vĩnh viển (áp dụng nguyên lý bảo hòa để luyện những kim loại bảo-hòa cần thiết cho máy),khi máy xử dụng chỉ tốn điện mà thôi.Ngày nay chúng ta có thể dùng đến "Điện mặt trời",
 Trong cách nhìn này nhóm "xã hội dân sự",có thể trực tiếp khuyến khích chính quyền tiếp tay,khi chính quyền tham gia vào thì quốc gia đó không còn sợ thiếu nguồn nước sạch để uống cũng như nước để trồng trọt.
 d-"Máy bức xạ phân rời muối"
"Thiết kế máy tựa như vùng đại dương:
-Phần đáy máng cần phải nóng,cần trang bị thêm "điện trở" để có nhiệt độ khoảng 40 độ C tiếp trợ trong sự bốc hơi,như thế máy "tạo bức xạ" sẽ được hoàn mỹ hơn.
-Phần thân máng có 2 phần:phần nắp trên (top) dùng kim loại bảo-hòa Zn+9Fe ,phần thân máng dùng đồng (Cu),vì đồng gần Zn+9Fe có tính sinh ra điện sẽ tạo từ trường trong không gian "bức xạ" di chuyển.Nhiệt phát ra từ "bức xạ" khoảng 80° C ,ở nhiệt độ này dạng nước di chuyển rất bình thường,không giao động,điều này cho chúng ta dễ chiết dung dịch 360g muối/lít khỏi nguồn nước.Vì "Nguyên lý Bảo-hòa" là định luật tự nhiên liên kết những chất bảo-hòa gần lại với nhau.
  Như thế máy sẽ kết hợp muối (75g Nacl/lít) trở thành Bảo-hòa 360g NaCl/lít chiếm 21% thể tích nước biển, chúng ta ch phân rời 21% nước muối 360g /lít trên mặt khỏi dung dịch thì sẽ có được nước uống.
 Để an toàn trong việc chiết rời,máy chỉ cần phân rời 25% dung dịch trên mặt nước như thế 75% nước phần gần đáy máng chứa là nước uống 100% nguyên chất.Cách làm này suy luận từ nhận xét :
1-"Sự thành hình Thái Dương Hệ là do "Bức xạ" mang 9 hành tinh bay xa tạo thành Thái Dương Hệ, bức xạ là nguồn dẩn chất bảo-hòa bao ph xung quanh các hành tinh.
2-Từ hiện tượng : Tại 2 cực Địa cầu,nước dưới 300m độ sâu có hiện tượng đóng băng (H2O+2CH4),chứng tỏ nước biển ở độ sâu 3.000 m chứa muối rầt ít.

  d-Máy tạo bức xạ 
LKC xin trình bày máy tạo "Bức xạ" nhỏ như sau:
(A).            ooooo
(B).Ddvào...Bx+nước biển+DdBH(360gmuối/l đi ra..
(C).Ddvào...Bx+nước biển...nước..nước..nước đi ra....

  I-Máy tạo bức xạ  
"A" là giàn máy tạo bức xạ 4 thì: O là một bộ phận phát nhiệt,thân tròn hình vành khăn dài 10 dm đường kính 3 dm được xoay ngược với chiều quay kim đồng hồ.Thân tròn là khối kim loại có 2 vòng hình vành khăn dày 0.4 dm,chính giữa 2 vòng hình vành khăn là 0.4 dm là khoảng không được thiết bị những điện trở (resistan,element,điện cực tụ nhiệt được gắn chặc trên mặt ngoài thành vành khăn nhỏ) để làm nóng 2 vòng hình vành,hình vành khăn nhỏ có bán kính ngoài là 0.7 dm và bán kính trong là 0.3 dm.Bên thân trong hình vành khăn nhỏ có những lổ thông nhau đến một trục cố định đường kính nhỏ hơn 0.6 dm để giữ thân hình vành khăn có thể chuyển động theo chiều ngược với kim đồng hồ,các lổ trên hình vành khăn nhỏ đồng thời cũng là mạch điện dẩn vào làm nóng các điện trở bên trong,điệnvào được bên trong ở dưới dạng tiếp xúc giữa vòng trong hình vành khăn nhỏ và trục cố định .
 [Nhiệt độ cần thiết từ trục phát nhiệt là 970° F (521° C) để tạo bức xạ ở nhiệt độ 80° C sẽ lối muối lên mặt nước của máng dễ dàng hơn].
*"O" nhỏ là ống cố định dài khoảng 10 dm,đây là nơi sẽ bắn ra những "hơi lạnh" dọc theo đường ống và song song với trục "phát nhiệt" từ một máy điều hòa không khí.
II-Bộ phận truyền dẩn nước biển
*"B" và "C" được phân biệt rõ ràng ở phần cuối cùng của máng chính dẩn nước biển vào máy.Khi "Bức xạ" được bắn ra sẽ lướt nhanh trên mặt nước biển và kéo "bảo hòa muối" lên phần trên mặt nước, lớp dung dịch "bảo hòa muối" này qua từng đọan "bức xạ" cuối cùng sẽ tụ được một nguồn nước 360g muối/lít nằm trên mặt chiếm 21% thể tích nước biển đi vào.
Từ đoạn cuối cho nước thoát ra ngoài,máy được thiết bị 2 nguồn thoát nước,đó là máng "B" và máng "C".Nguồn thoát nằm bên trên máng "B" là nguồn nước 360g muối/lít chiếm 21% thể tích,để an toàn cho việc chiết muối,chúng ta chọn 25% từ mặt nước trở xuống là máng "B",phần còn lại 75% nằm gần dáy cho máng "C",như thế lớp dung dịch phần dưới đáy chính là lớp nước uống được.
Phần cuối cùng của 2 nguồn máng "B" và "C" là máng nối tiếp của máng d (dài 20 dm,rộng 2 dm,cao 2.5 dm),được chảy vào 2 hồ chứa riêng biệt:nước muối bảo-hòa 360g muối/lít và nước uống trong sạch.
 Sau đây là máng chứa dung dịch điển hình:
a.Máng dài 20 dm,rộng 10 dm,dd vào cao 0.5 dm.
b.Máng dài 20 dm,rộng 7 dm,dd vào cao 0.8 dm.
c.Máng dài 20 dm,rộng 4 dm,dd vào cao 1.4 dm.
d.Máng dài 20 dm,rộng 2 dm,dd vào cao 2.5 dm.
 Thật ra 4 máng nối liền với nhau để có một máng liên tục dài 8 m .Mỗi máng có dung tích khoàng 100 lít dung dịch,chiều cao của máng có sự khác biệt về chiều sâu để giữ mặt phẳng bên trên không chênh lệch tạo điều kiện thuận tiện cho "bức xạ" di chuyển trên mặt dung dịch.Từ mặt phẳng dung dịch vào đến nắp che kín máng khỏang chừng 0.1 dm đến 0.2 dm,không gian càng nhỏ "bức xạ" di chuyển càng mạnh và nhanh hơn,100 lít nước biển chảy vào có tổng cộng lượng muối 7500 gram muối,sau khi "bức xạ" 7500 gram muối sẽ thu gọn vào 21 lít (7.500g/20.8 lít),như thế sự tách rời muối khỏi nước biển trong cách dùng "bức xạ" vẩn là niềm hy vọng để Địa cầu tránh hạn hán,75% nước ngọt lấy từ nước biển là nguồn nước cần thiết cho con người làm xanh Địa cầu.
 Đây là ý riêng LKC trong quan niệm bảo hòa từ bức xạ với vật thể bảo-hòa,vì chuyển động bảo-hòa có đặc tính tiếp thu năng lượng trong khí "bức xạ" là nguồn phát sinh năng lượng mạnh,vì thế "bức xạ" sẽ kéo đi những vật thể bảo hòa khi đi ngang qua

 Được-Lời (LKC) Ngày 04/11/2015.
  (Tóm gọn bài ngày 16/4/2015)

No comments:

Post a Comment