Monday, March 11, 2013

Rồng VIỆT-NAM

                  Rồng VIỆT-NAM
                                       Lạc-long-Quân
 
 Nói đến lịch-sử Việt-Nam thì mọi người đều biết chuyện Lạc-long-Quân
cùng bà Âu-Cơ sinh ra 100 người con,trong lúc làm vua ông nói với bà
Âu-Cơ rằng "Ta là giống rồng,nàng là giống tiên,thủy hỏa khắc nhau,
chung hợp thật khó",rồi từ biệt nhau,Âu-Cơ dẩn 50 con lên núi,Lạc-long-
Quân dẩn 50 con về vùng duyên hải,bởi thế có chuyện người Việt là con
cháu Tiên-Rồng,câu nói rất đơn-giản nhưng ngầm chứa một triết-lý cao
siêu,nói lên một chế độ quân-chủ tự-do (Người làm vua gọi là Quân,chứ
không gọi là Đế hay là Vương),trong một xã-hội mẩu-hệ(Tiên-Rồng chứ
không gọi là Rồng-Tiên),chính quan niệm này làm ổn-định 18 đời vua
Hùng-Vương,đều do bởi một "Minh-Quân con rồng Lạc-Việt".Để hiểu
thêm về sự-tích này mời các bạn cùng nghiên-cứu 5 quyển sử sau đây:
1-An-Nam chí lược.
Tác-gỉa Lê-Tắc,viết năm 1335.
Dịch gỉa:Ủy ban phiên dịch lịch sử Việt-Nam năm 1960.
Xuất bản do Viện đại học Huế năm 1961.
Sách viết nước An-Nam có giao thông với TQ,thời vua Chuyên-Húc,phía
bắc đi tới U-Lăng phía nam đi tới Giao-Chỉ,thời vua Nghiêu sai Hy-Hòa
qua đất Nam-Giao,thời vua Thuấn sai Vũ qua Nam-yên-vổ Giao-Chỉ,qua
thời Chu-thành-Vương(1115tcn-1079tcn) họ Việt-Thường(VT) có sứ gỉa 
9 lần qua triều-cống Tây-Chu,nước VT từ đất Cửa-Châu ở phía nam Giao-
Chỉ, năm tân-mẹo (1109tcn) sứ-giả VT đến Tây-Chu diện kiến Chu-Công
và nói:"Trời không gió bão mưa to,ngoài biển không nổi sóng dữ đã 3 năm,
chắc TQ có thánh nhân trị vị,sao chẳng đến chầu".Chu-Công đáp:"Vui
thay,chẳng phải Đán(1) có tài,mà nhờ đức của Văn-Vương đó".
Từ đây ta thấy Giao-Chỉ là vùng đất riêng biệt ngòai lảnh thổ TQ,trong
năm 1109tcn sứ-giả VT được diện kiến Chu-Công,phải là vua VT hay con
của vua,chắc ta phải nhận đó là con vua Kinh-dương-Vương,Sùng-Lãm,
sau này là Lạc-long-Quân.
2-Việt-Nam sử lược.Viết năm 1377-1388,tác gỉa khuyết danh.
Dịch gỉa:Nguyễn-gia-Tường viết năm 1972,và xuất bản vào 1993.
Sách viết Hoàng-Đế(ông vua đầu tiên của TQ) dựng lên muôn nước,thấy
Giao-Chỉ xa xôi ở ngoài cỏi Bách-Việt(vùng Hồ-nam,Quảng-đông,Quảng-
tây,Vân-nam,Quế-châu)không thể thông thuộc được,bèn phân ranh giới
gốc Tây-nam.Gồm có 15 bộ-lạc (2) không thuộc châu quản-trị của
Hoàng-Đế. (3)
-Vào thời Tây-Chu đời Chu-thành-Vương có sứ từ VT đến dâng chim trĩ.
-Vào thời Đông-Chu đời Chu-trang-Vương (696tcn-682tcn) ở châu Gia-
Ninh có người lạ dùng tà thuật quy phục các bộ-lạc tự xưng là Hùng-
Vương,đóng đô ở Văn-Lang(sách sử khác đều ghi là Phong-Châu).
Quốc hiệu là Văn-Lang.
3-Đại-Việt sử ký toàn thư,viết năm 1679 (năm Chính-Hoà thứ 18).
Tác-gỉa Lê-văn-Hưu,Phan-phu-Tiên,Ngô-sĩ-Liên.
Dịch-giả:Viện khoa-học xã-hội VN (1985-1992).
Nhà xuất-bản:Khoa-học XH Hà-nội (1993).
Sách viết Đế-Minh cho con trưởng Đế-Nghi làm vua phương Bắc,phong
Lộc-Tục làm vua phương Nam,xưng là Kinh-dương-Vương,là thủy-tổ
Bách-Việt,có con là Sùng-Lãm kết hôn với bà Âu-Cơ,con của Đế-Lai,
là cháu nội của Đế-Nghi,nói rõ ra Âu-Cơ là cháu chú bác của Sùng-Lãm,
vì ở VT theo mẩu hệ,Bắc phương theo phụ hệ nên Âu-Cơ họ Đế,2 người
đều người khác họ.
Họ Hồng-Bàng kể từ năm nhâm-tuất đến năm quý mảo (2879tcn-258tcn),
sách cũng ghi Chu-thành-Vương tại vị khoảng năm (1063tcn-1026tcn).
4-Quyển khâm-định Việt-sử thông-giám cương-mục.
Soạn giả quốc sử giám triều Nguyễn(1856-1881).
Dịch gỉa Viện sử học (1957-1960).
Điểm đặc biệt trong quyển sử này ghi là "Lạc-long-Quân là tổ tiên của
Bách-Việt,chức vua được cha truyền con nồi theo phụ hệ (con sinh ra
lấy họ cha)"
5-"Việt-Nam sử lược" và "Việt sử toàn thư" đều là quyền sử-ký do ông
Trần-trọng-Kim viết năm 1919 bằng chữ Việt như ta viết ngày nay,các
ngày tháng bằng âm lịch đều phụ thêm tây lịch.Tuy là quyển sử viết sau
nhưng có tầm ảnh hưởng lớn trong quần chúng,vì được phổ thông truyền
dạy trong ngành giáo-dục học đường.
Đọc qua ta thấy đươc Trần-trong-Kim chỉ dựa vào 2 quyển Việt-Nam sử-
lược (1377-1388) và quyển Đại-Việt sử-ký toàn thư (1679),đồng thời ông
xác nhận Việt-Nam sử-lược là quyển sử đầu tiên của VN,cũng chính ông
xác nhận Kinh-dương-Vương là vua đầu tiên của họ Hồng-Bàng.
Ông viết Đế-Minh cháu 3 đời vua Thần-Nông nam du đến núi Ngũ-linh
gặp Vụ-Tiên sinh Lộc-Tục,Đế-Minh truyền ngôi cho con trưởng Đế-Nghi
làm vua phương Bắc,và Lộc-Tục làm vua phương Nam,xưng là King-
dương-Vương lấy quốc hiệu là Xích-Qũy,họ Hồng-Bàng bắt đầu từ đây
(2879tcn--).Lộc-Tục lấy con gái Động-đình-Quân là Long-Nữ sinh ra
Sùng-Lãm (4),Sùng-Lãm lên ngôi vua gọi là Lạc-long-Quân,quốc-hiệu là
Văn-Lang,đóng đô ở Phong-Châu.Đông giáp biển Nam-hải,tây giáp Ba-
thục,bắc giáp hồ Động-đình,nam giáp Hồ-tồn (Chiêm-Thành).
 
I- Họ Hồng-Bàng.
 Nói đến họ Hồng-Bàng thì tất cả người Việt đều nói đó là họ của Tổ vua
Hùng-Vương,vậy ai là tổ vua Hùng-Vương,theo "Đại-Việt sử-ký toàn thư"
nói là Kinh-dương-Vương Lộc-Tục,theo quyển "Khâm-định Việt-sử thông-
giám cương-mục"nói  là Lạc-long-Quân Sùng-Lãm,để rõ họ Hồng-Bàng
bắt đầu từ người nào,thì chúng ta cần 2 chữ "Hồng-Bàng" ai nói ra trước.
Trong thời Kinh-dương-Vương chỉ nói khi lên ngôi ông đặt quốc-hiệu là
Xích-Qũy,còn trong thời Lạc-long-Quân khi lên ngôi ông đặt quốc hiệu là
Văn-Lang,ra luật triều chánh,con trưởng nam lên làm vua họ Hồng-Bàng,
cho nên ta thấy họ Hòng-Bằng là cái họ Lạc-long-Quân đặc ân cho vua
Hùng-Vương sau này,nếu chúng ta hiểu trong ý nghĩa này thì chúng ta sẽ
rõ:"Nước Việt chỉ có 18 người mang họ Hồng-Bàng,đó là 18 vị Hùng-
Vương",từ điểm này chúng ta mới tìm được họ Hồng-Bàng bắt đầu từ năm
nào,muốn vậy chúng ta phải xác định năm nào khởi đầu vua Hùng-Vương
thứ nhứt.Muốn biết chúng ta cần hiểu rõ:
A-Nhìn vào những dữ kiện lịch sử chúng ta đều thấy sử Việt có liên quan
đến các triều đại bên TH  nên chúng ta cũng cần biết sơ qua về các triều
đại bên Tàu.Nước Trung-Hoa bắt đầu vào :
*Thời vua Thần-Nông (không rõ từ năm nào).
*Hoàng-Đế (2698tcn-2574tcn) 124 năm.
*Thời loạn lạc các bộ lạc tranh quyền (2574tcn-2333tcn) 241 năm.
*Vua Nghiêu (2333tcn-2233tcn) 100 năm,quốc hiệu là Đường.
*Vua Thuấn (2233tcn-2183tcn) 50 năm quốc hiệu  là Ngu.
*Nhà Hạ bắt đầu từ vua Vũ (2183tcn-1751tcn) 432 năm.
*Nhà Thương (1751tcn-1111tcn) 640 năm.
*Nhà Chu (1111tcn-221tcn) 890 năm.Gồm
  a-Tây-Chu (1111tcn-770tcn) 341 năm.
  b-Đông-Chu (770tcn-221tcn) 549 năm,có 2 giai đoạn:
     1-thời Xuân-thu (770tcn-403tcn) 367 năm
     2-thời Chiến-quốc (403tcn-221tcn) 182 năm.
*Nhà Tần (221tcn-206tcn) 15 năm.Từ thời nhà Tần trong lịch sử TH xem
  như bắt đầu thời kỳ thống nhất của TH.
 B-Nhìn về Việt-sử chúng ta nhận thấy những điểm giống nhau như :
 a-"Cháu 3 đời vua Thần-Nông".Đây không xác định rỏ về thời-gian,nhưng
 người chép lại sứ cứ cố tình chứng-minh cho hợp với cái năm "nhâm-tuất"
trong sách sử đã ghi,nên chọn "năm nhâm-tuất 2879tcn gần thời vua Thần-
Nông nhất có trước thời Hoàng-Đế 181 năm,như vậy ta thấy người viết sử
chưa đọc đoạn trong Việt-Nam sử-lược nói:"Giao-chỉ xứ ngoài Bách-Việt,
15 bộ-lạc không nằm trong hạt quản-trị của Hòang-Đế" và trong Đại-Việt
sử-ký toàn-thư nói:"Mổi lần sứ VT trở về đều có người dùng la-bàn để đưa
sứ-gỉa về nước",cái la-bàn là phát minh đầu tiên trong thời Hoàng-Đế.Vậy
trước Hoàng-Đế đất Việt-Thường chưa có,mà chỉ có sau thời Hoàng-Đế,cho
nên nói năm nhâm-tuất 2879tcn là năm bắt đầu họ Hồng-Bàng thì không
hợp lệ.
b-"Việt-thường có sứ giã đến viếng Chu-thành-Vương".Chu-thành-Vương
là vua thứ nhì của thời Tây-Chu,nhưng là vua đã diệt nhà Thương và thống
nhất các chư-hầu lại lập lên nhà Tây-Chu (1111tcn-770tcn).Trong các quyển
sử đều viết Chu-thành-Vương (1115tcn-1079tcn),trước thời Tây-Chu 5 năm (5),
chỉ riêng Đại-Việt sử-ký toàn thư ghi Chu-thành-Vương (1063tcn-1026tcn),
điểm này không hợp với thời gian bắt đầu Tây-Chu,nên ta chỉ nhận Chu-
thành-Vương trong khoảng năm (1115tcn-1079tcn).
c-"Họ Hồng-Bàng (từ năm nhâm-tuất đến năm qúy-mẹo).(2879tcn-258tcn).
Trong quyển Việt-Nam sử-lược ghi VT có sứ đến dâng chim trĩ trong thời
Tây-Chu Chu-thành-Vương (1115tcn-1079tcn),đồng thời cũng ghi vào thời
Đông-Chu Chu-trang-Vương (696tcn-682tcn),có người dùng tà thuật quy
phục các bộ-lạc,tự xưng là Hùng-Vương,điều này cho ta thấy quyển Việt-
Nam sử-lược nói về vua Hùng-Vương không đúng,vì trong khoảng năm
(696tcn-682tcn) không có năm nhâm-tuất,vì năm nhâm-tuất 719tcn trước
696tcn 23 năm,và nhâm-tuất kế đến là năm 659tcn sau năm 682tcn là 23
năm.Xét về thời Chu-thành-Vương ta thấy năm 1079tcn là năm nhâm-tuất.
Từ sự giải thích này ta có thể nói :"Vua Hùng-Vương thứ nhứt bắt đầu từ
năm nhâm-tuất 1079tcn đến cuối đời vua Hùng-Vương thứ 18 là năm qúy-
mẹo 258tcn.Họ Hồng-Bàng ta được biết đến khi Lạc-long-Quân lên ngôi
vua,ông ra luật "Người làm vua phải là con trai trưởng,gọi là Hùng-Vương
họ Hồng-Bàng",ta có phải hiểu chỉ có vua Hùng-Vương mới có họ Hồng-
Bàng,vậy họ Hồng-Bàng chỉ riêng cho 18  vi vua Hùng-Vương mà thôi.
Ta viết họ Hồng-Bàng (1079tcn-258tcn)trị vị tất cả 821 năm trung bình
mổi vua được 45 năm.
Để chứng minh việc này ta có thể làm bài tính như sau:
*Năm nhâm-tuất gần ta nhất là năm 1982,
-nếu ta lùi lại 51x60=3060 năm,ta có năm 1079tcn,
-nếu ta lùi lại 81x60=4860 năm,ta sẽ có năm 2879tcn.
*Năm qúy mẹo gần ta nhất là năm 1963,
-nếu ta lùi lại 37x60=2220 năm,ta có năm 258tcn.
Theo trong quyển An-Nam chí-lược,năm tân-mẹo1109tcn,Sùng-Lãm đi sứ
qua Tây-Chu có gặp Chu-Công,nên Sùng-Lãm nhận rõ nhiều chuyện về
Tây-Chu,như việc trị quốc ởTây-Chu,việc Chu-võ-Vương có 100 người con,
vào năm 1109tcn là năm thứ 3 của nhà Tây-Chu,Sùng-Lãm cần gần 1 năm
mới về đến VT,đó là năm 1108tcn,từ năm 1108tcn Sùng-Lãm có mặt tại
Việt-Thường và sau đó lên ngôi vua thay Kinh-dương-Vương,gọi là
Lạc-long-Quân,vậy Lạc-long-Quân lên ngôi từ năm nào?Chúng ta không
biết được,chúng ta chỉ biết năm 1079tcn là năm đầu tiên của vua Hùng-
Vương thứ nhứt,từ năm 1109tcn-1079tcn là 30 năm,nói rỏ hơn Lạc-long-
Quân làm vua không qúa 30 năm năm 1079tcn là năm Lạc-long-Quân
băng hà.
Hằng năm ngày 10 tháng 3 âm lịch là ngày giổ Tổ Hùng-Vương,vậy Tổ
Hùng-Vương là ai?Nhiều người nói là Vua Hùng-Vương thứ nhứt,nhưng
trong quyển "Đại-Việt sử-ký toàn thư"có ghi,"Kinh-dương-Vương là thủy
tổ cuả Bách-Việt"còn trong quyển"Khâm-định sử-Việt thông-giám cương-
mục"lại ghi"Lạc-long-Quân là tổ tiên Bách-Việt"(Bách-Việt là vùng Hồ-
nam,Quảng-đông,Quảng-tây,Vân-nam),như trên vừa nói 15 châu thời Lạc-
long-Quân ngoài vùng Bách-Viêt,vậy Bách-Việt có thể đúng vào thời Kinh-
dương-Vương mà không đúng vào thời Lạc-long-Quân.Tại sao?Vì vùng
Bách-Việt đã chia cho bà Âu-Cơ cùng 50 người con theo bà lên núi,và trở
thành vùng của họ Đế.Cho nên việc ai là tổ-tiên Bách-Việt ta không cần
biết đến,chúng ta chỉ cần biết điều chắc chắn là khi Lạc-long-Quân nhiếp
chánh ông đặt ra luật triều chánh:"Con trưởng nam sẽ lên làm vua,được
gọi là Hùng-Vương họ Hồng-Bàng,con trai gọi là "Quan-hùng" con gái
gọi là "Mỵ-nương",các quan văn-võ gọi chung là "Bố-chính" tướng văn
gọi là "Lạc-hầu",tướng võ gọi là "Lạc-tướng",phân đất thành 15 châu hạt
để quản-trị,quốc-hiệu gọi Văn-Lang,đóng đô ở Phong-Châu.Từ luật hành
chánh trên đây cho ta thấy dân tộc ta là dòng dỏi Lạc-Việt.Ba chữ Lạc-long-
Quân hàm chứa một ý nghĩa cao xa đó là "Minh-quân Rồng Lạc-Việt".Điều
này cho chúng ta nói lên Lạc-long-Quân chính tực là rồng Việt-Nam,là Tổ-
tiên của 18 vị vua Hùng-Vương mà ngày nay chúng ta chỉ gọi
"TỔ HÙNG-VƯƠNG".
II-Tư-tưởng Việt-Nam.
Theo tập-tục chúng ta thường biết tư-tưởng TH về quan-niệm trung-hiếu,
tu-thân,tề-gia,trị-quốc,bình thiên-hạ,coi đây như một nền tảng triết học để
xây dựng quốc-gia,ít người Việt nghĩ đến dân tộc Việt có một quan-điểm tư-
tưởng vượt qúa  thời gian,đó là tư-tưởng nói về chữ "BÌNH",đúng ra ta
phải nói là "Tam-bình".Vào thời đó dân Việt ta chưa có văn-hóa,mọi việc
được ghi lại bằng lối thắc-gút hoặc bằng hành động để mọi người được rõ,
chuyện bà Âu-Cơ dẩn 50 con lên núi,Lạc-long-Quân dẩn 50 con về vùng
biển,cho dân thấy con vua cũng phải về sống cùng đời sống như dân,không
phân biệt quan-dân sang-hèn,50 lên núi 50 xuống biển nói lên được chữ :
Bình",trước khi phân chia như vậy Lạc-long-Quân nói với bà Âu-Cơ
"Ta là giống rồng,nàng là giống tiên,thủy hỏa bất hòa,chung hộ thật khó",
nên 2 người chia cách,mổi người dẩn 50 người con,để việc nước được yên ổn,
điều này nói lên được chữ "Hòa" (6),những chuyện này đều thể hiện trước
công chúng,là chuyện có thật,vậy chuyện Lạc-long-Quân và bà Âu-Cơ có 100
người con (Chu-võ-Vương cũng có 100 người con)là có thật,không phải là
chuyện hoang đường,chuyện 100 người con này cũng nói lên nước Văn-Lang
cũng giống như Tây-Chu trị dân có khuôn phép vẩn trọng chữ Tín và Hiếu,
"Tín" là tin tưởng lẩn nhau không gian-dối,"Hiếu" là chăm sóc lẩn nhau
không phụ-bạc,nhưng tại Văn-Lang có thêm chữ "Bình",đó là quan điểm về
"Tư-tưởng Việt-Nam".
 
                             HÙNG-VƯƠNG DỰNG NƯỚC
                                    ( Tư-tưởng Tam-Bình )
                       Hồng-Bàng vốn họ vua Hùng-Vương.
                       Người đứng đầu của nước Văn-Lang.
                           Mười tám đời yên như bàn thạch.
                         Sống an-nhàn một cỏi phương Nam.
                           Lấy đạo nhơn-hòa xây dựng nước.
                       Không màng tranh chấp với lân-bang.
                             Trên dưới vua tôi vốn một lòng.
                          Thương nhau tựa như cùng cha mẹ.
 
                          Thanh-Bình trong cảnh đời dân dã.
                       Hòa-Bình trong cuộc sống chung nhau.
                               Thái-Bình dân sống đời an-lạc.
                            Tam-Bình chung lại sống thái-hòa.
                                 Vua tự xem dân như cha mẹ.
                            Dân trọng vua như bậc thánh-hiền.
                         Chung lòng xây dựng nước Văn-Lang.
                          Phù trợ dương danh giống Lạc-Hồng.
 
Ghi-chú:
 (1) Đán là tên của Chu-Công,còn Văn-Vương trong lịch sử TQ không
nhắc đến,tôi nghĩ đây là chức vị của Chu-Công,vì Chu-Công là em của
Chu-võ-Vương(vua đầu tiên của Tây-Chu) là cha của Chu-thành-Vương,
Chu-võ-Vương bị vua Trụ giam lỏng tại nước Thương làm con tin,nên
Chu-Công là người phụ giúp triều chánh cho Chu-thành-Vương mà thôi.
 (2) 15 bộ-lạc tức là 15 châu hạt là phần đất Giao-chỉ được thành lập trong
thời Lạc-long-Quân.(Trong Việt-Nam sử lược viết:Giao-chỉ xa xôi ở ngòai
cỏi Bách-Việt) không thuộc phần đất Bách-Việt.
Gồm có: 1-Văn-lang (Bạch-hạt,tỉnh Hưng-yên).
               2-Giao-chỉ (Hà-nội,Hưng-yên,Nam-định,Ninh-bình).
               3-Vũ-ninh (Bắc-ninh).             4-Phúc-lộc (Sơn-tây).
               5-Việt-thường (Quảng-bình,Qiảng-trị).
               6-Chu-diên (Sơn-tây).              7-Ninh-hải (Quảng-yên).
               8-Dương-tuyền (Hải-dương).  9-Lục-hải (Lạng-sơn).
             10-Vũ-định (Thái-nguyên,Cao-bằng).
             11-Cữu-châu (Thanh-hóa).       12-Cữu-đức (Hà-tỉnh).
             13-Tân-hưng (Hưng-hóa,Tuyên-quang).
             14-Hoài-hoan (Nghệ-an).          15-Bình-văn (???).
Ta thấy đây là phần đất thực sự của tộc Lạc-Viêt thuộc quyền cai trị cuả
18 vị vua Hùng-Vương trong suốt 821 năm.
 (3) Chuyện phân ranh có ghi trong quyển"Vũ-cống",là quyển sách địa-lý
của vua Vũ thời nhà Hạ,ta thường gọi Hạ-Vũ,sách này được ghi lại do
chính  tay Nguyễn-Trãi viết với cái tên "An-Nam Vũ-cống".Rõ thật 15
châu-hạt phía Nam không thuộc đất quản-trị thời Hoàng-Đế.
 (4) Theo Đại-Việt sử-ký toàn thư,bắt đầu từ Kinh-dương-Vương Lộc-Tục,
quốc hiệu là Xich-Qũy,đời thứ nhì là Lạc-long-Quân Sùng-Lãm,quốc hiệu
là Văn-Lang,chỉ 2 đời vua với 2 họ khác nhau và 2 quốc-hiệu khác nhau,
vì thời này dân-tộc VN theo mẫu-hệ,tên nước thường đổi,đó là điều cấm
kị nhất trong một quốc-gia ổn định.nên đến thời Lạc-long-Quân với luật
"Họ Hồng-bàng" nước Văn-Lang vẩn tiếp tục đến cuối đời Hùng-Vương
thứ 18 và cùng thủ-đô là Phong-châu.
 (5) Chu-thành-Vương lên ngôi vua năm 1115tcn,trước hơn 5 năm triều đại
Tây-Chu là vì cha của Chu-thành-Vương là Chu-võ-Vương lúc nào cũng
trung với vua Trụ nhà Thương,không bao giờ có lòng phản Thương,nhưng
vì cách trị dân của ông có phép-tắc,tựa như thời vua Nghiêu vua Thuấn,rất
được lòng dân,nên vua Trụ lo sợ bắt giữ ông làm con tin,trong lúc này bên
Tây-Chu mọi việc triều chánh đều do Chu-Công (em của Chu-võ-Vương)
phù trợ Chu-thành-Vương nhiếp chánh.(trong sử có ghi là Chu-văn-Vương,
theo tôi nghĩ đây là tước vị của Chu-công).
  (6) Tại sao việc chia tay tôi lại gọi đó là "Hoà"?Như tôi đã nói Lạc-long
Quân là người đi trước thời-gian,trong lần đi sứ qua Tây-Chu,ông nhận
thấy các chư hầu bên TH đánh nhau vì chữ "Đế" và "Vương",nên khi làm
vua ông chỉ dùng chữ "Quân",khi làm vua ông ra luật người làm vua gọi
"Hùng-vương" họ "Hồng-Bàng",2 chữ "Hùng-vương"cho các chư hầu
khác biết đó chỉ là cái chức trong nước Văn-Lang,cho nên 18 vị vua đều
gọi Hùng-Vương,còn họ Hồng-Bàng,để tránh bà Âu-Cơ ganh tị "sao con
làm vua không là họ Đế",thật ra các người con khác đều mang họ mẹ,nếu
không có luật này,thì người con kế ngôi ông cũng nhận mình là họ Đế,như
thế cả tộc Lạc-Việt sẽ bị đồng hóa theo tộc Bách-Việt,cho nên khi chia con
Âu-Cơ dẩn 50 con lên núi,đó là vùng núi Bách-Việt,Lạc-long-Quân dẩn 50
con xuống biển,đó là vùng biển của Lạc-Việt,từ việc kết nghĩa vợ chồng giữa
Lạc-long-Quân và Âu-Cơ có thể là sự sắp đặt của Đế-Lai đem con gái mình
Âu-Cơ gã cho chú là Sùng-Lãm,rồi đời vua kế tiếp Lạc-long-Quân cũng là
họ Đế,như thế tộc Lạc-Việt sẽ tiêu đời,không phải vì đồng hóa mà sẽ mất
luôn cả nước Văn-Lang,nước Việt được tồn tại vì sự hiện diện của một triều 
đại nối liền bởi 18 vị vua Hùng-Vương cùng Tổ Lạc-long-Quân trên hơn 821
năm trên cùng một đất nước,gắng liền 15 bộ-lạc thành một dân-tộc kiên
cường trên đất nướcVăn-Lang đóng đô tại Phong-Châu.
Đây là một dữ-kiện lịch-sử cho tộc Việt nghĩ lại về quan-điểm "Tam-Bình"
của Lạc-long-Quạn có khác gì quan-điểm "Tư-do,Dân-chủ,Nhân-quyền và
Công-bằng"mà hiện nay chúng ta đương đối đầu,chúng ta sẽ thấy "Tam-Bình"
bao gồm tất cả tư-tưởng mà chúng ta mong muốn.Tư-tưởng này Lạc-long-
Quân đã thực hiện trên đất Việt-Nam từ trước hơn 3,200 năm.
 
Được-Lời (LKC ngày 31-01-2013)

No comments:

Post a Comment